Articles Mr Old Man THƯ TÍN DỤNG PHÁT HÀNH BỞI TỔ CHỨC PHI NGÂN HÀNG: RỦI RO VÀ GIẢI PHÁP By Mr Old Man Posted on April 6, 2022 44 min read 0 0 2,621 Share on Facebook Share on Twitter Share on Google+ Share on Reddit Share on Pinterest Share on Linkedin Share on Tumblr THƯ TÍN DỤNG PHÁT HÀNH BỞI TỔ CHỨC PHI NGÂN HÀNG: RỦI RO VÀ GIẢI PHÁP Nguyễn Hữu Đức Gần đây người viết bài này nhận được từ các đồng nghiệp tại các ngân hàng và các nhà xuất khẩu nhiều câu hỏi liên quan đến thư tín dụng (LC) phát hành bởi tổ chức phi ngân hàng (TCPNH) thông qua điện MT 710, trong đó không ít trường hợp không chỉ nhà xuất khẩu bị rủi ro mà cả ngân hàng cũng nhận “trái đắng” liên quan đến loại LC này. Trong bài viết này, người viết nêu là một số tình huống rủi ro liên quan đến LC phát hành bởi TCPNH thông qua điện MT 710 và các giải pháp phòng tránh. MT 710 là gì? MT 710 như tên gọi của nó “Advice of a Third Bank’s of a Non-Bank’s Documentary Credit” là một loại điện Swift được ngân hàng thông báo sử dụng để thông báo cho người thụ hưởng hoặc ngân hàng thông báo khác các điều kiện và điều khoản của LC được phát hành bởi một ngân hàng thứ ba hoặc một TCPNH (thường là các công ty). Swift và ICC thống nhất rằng các TCPNH có thể phát hành LC miễn là khi nhận được LC phát hành bởi TCPNH thông qua MT 710, ngân hàng thông báo có trách nhiệm thông báo cho người thụ hưởng (nhà xuất khẩu) hoặc ngân hàng thông báo khác biết rõ tình trạng phi ngân hàng của tổ chức phát hành LC và nêu rõ vai trò hạn chế của ngân hàng thông báo. ICC lưu ý: “Nếu mẫu thông báo có điểm nào ám chỉ rằng tổ chức phát hành L/C là ngân hàng hoặc khiến người ta hiểu nhầm tưởng rằng đó là một ngân hàng thì thông báo đó phải khẳng định rõ tình trạng phi ngân hàng của tổ chức phát hành để tránh sự hiểu nhầm”. UBNH cũng lưu ý thêm: “Dĩ nhiên, nếu thể thức phát hành L/C khiến cho người thụ hưởng tin rằng tổ chức phát hành là một ngân hàng thì ngân hàng thông báo có thể phải chịu trách nhiệm”. LC phát hành bởi TCPNH cũng có thể dẫn chiếu UCP 600 và TCPNH cũng có nghĩa vụ như ngân hàng phát hành, đó là: phải thanh toán khi bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều khoản và điều kiện của LC. Việc LC phát hành bởi TCPNH được thông báo và xuất trình chứng từ qua ngân hàng nhằm bảo đảm tính xác thực của LC. Tuy nhiên, tương tự như LC phát hành bởi ngân hàng, LC phát hành bởi TCPNH cũng tiềm ẩn những rủi ro liên quan đến uy tín của tổ chức phát hành và rủi ro quốc gia. Do vậy, nhà xuất khẩu cần cân nhắc xem thử có sẵn sàng chấp nhận LC phát hành bởi TCPNH hay không. Một số tình huống rủi ro liên quan đến LC phát hành bởi TCPNH Tình huống 1: Một đồng nghiệp công tác tại Bank V ở Việt Nam nhờ người viết tư vấn tình huống liên quan đến MT 710 Bank V nhận được từ Bank U ở Ucraina với nội dung như sau: “50B: Tổ chức phát hành phi ngân hàng: Company E ở Zambia 50: Người mở LC: Company A ở Zambia 59: Người thụ hưởng: Company B ở Vietnam 32B: Đơn vị tiền tệ, Số tiền: USD2,000,000 44E: Cảng bốc hàng: Cảng bất kỳ ở Cameroon 44F: Cảng dỡ hàng: Cảng bất kỳ ở UAE 45A: Mô tả hàng hóa: Gold 49H: Điều kiện thanh toán đặc biệt: Chúng tôi (Bank U) chuyển tiếp điện MT 710 trên cơ sở điện MT 710 chúng tôi nhận được từ Bank X với số tham chiếu XXX. Đề nghị quý hàng chuyển tiếp điện MT 710 này đến Bank Y ở Việt Nam. Chúng tôi chuyển tiếp điện MT 710 mà không bổ sung xác nhận của chúng tôi và không chịu bất kỳ rủi ro hay trách nhiệm nào. Chúng tôi cùng không chịu bất kỳ khoản phí nào. (We (Bank U) relay this MT 710 against MT 710 we received from Bank X under their reference no. XXX. Please relay it to Bank Y in Vietnam. We relay this MT 710 without adding of our confirmation and without any risk and responsibility. No fees can be claimed from us)”. Câu hỏi: 1. Điện MT 710 được Bank U chuyển tiếp đến Bank V là điện đã được xác thực tính chân thật? 2. Bank V có chịu trách nhiệm gì nếu chuyển tiếp LC này cho Bank Y để thông báo cho người thụ hưởng theo chỉ thị của Bank U? 3. Trường hợp Bank V muốn từ chối chuyển tiếp MT 710 cho Bank Y thì căn cứ vào quy định nào của UCP 600. Phân tích và kết luận: Dựa vào các điều kiện và điều khoản LC và các bên liên quan, có thể nhận thấy LC này tiềm ẩn nhiều rủi ro, cụ thể: a. LC có giá trị lớn (2.000.000 USD) nhưng được phát hành bởi một TCPNH ở một quốc gia kém phát triển. b. Người thụ hưởng ở Việt Nam nhưng cảng bốc hàng ở Cameroon. c. MT 710 được “chuyển tiếp” lòng vòng qua nhiều ngân hàng có thể là nhằm mục đích che giấu ý đồ gian lận, không loại trừ khả năng là giả mạo LC, thậm chí rửa tiền. d. Bank U cố tình dùng từ “chuyển tiếp” (relay) thay vì “thông báo” (advise) như tên gọi của điện MT 710 (Thông báo LC của Ngân hàng thứ ba hoặc của TCPNH) nhằm tránh né trách nhiệm nếu LC là giả mạo. Trên cơ sở phân tích trên đây, người viết trả lời câu hỏi của Bank V như sau: 1. MT 710 là điện Swift đã được xác thực giữa Bank U và Bank V. Tuy nhiên, việc Bank U cố ý sử dụng từ “chuyển tiếp” MT 710 nhằm thoái thác trách nhiệm nếu như MT 710 mà Bank U nhận được từ ngân hàng thông báo trước đó là giả mạo. 2. Bank V có thể phải chịu trách nhiệm liên đới nếu như chuyển tiếp MT 710 đến Bank Y theo yêu cầu của Bank U mà không lưu ý Bank Y và người thụ hưởng tình trạng phi ngân hàng của tổ chức phát hành. 3. Bank V cần thực hiện KYC các bên tham gia giao dịch LC để có thêm cơ sở quyết định từ chối chuyển tiếp/thông báo MT 710 cho Bank Y nhằm phòng tránh rủi ro phải chịu trách nhiệm liên đới nếu LC giả mạo hoặc phục vụ cho mục đích rửa tiền. Điều 9(e) UCP 600 cho phép ngân hàng được quyền từ chối yêu cầu thông báo LC, sửa đổi LC và phải thông báo ngay điều đó ngân hàng mà từ đó đã nhận được LC, sửa đổi LC hoặc thông báo. Do vậy, Bank V có thể gửi điện cho Bank U thông báo từ chối chuyển tiếp MT 710 cho Bank Y mà không cần viện dẫn bất kỳ lý do nào trên đây. Cũng lưu ý thêm rằng LC được phát hành bởi TCPNH luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro ngay cả khi đó là LC thật bởi ngoài lý do liên quan đến uy tín và khả năng tài chính để thanh toán LC, TCPNH không sử dụng Swift để liên hệ với ngân hàng, việc xử lý chứng từ xuất trình theo LC có thể không đảm bảo tuân theo quy định của UCP 600. Các TCPNH phát hành LC thường ở các quốc gia kém phát triển, chưa có thỏa thuận tương trợ pháp lý với Việt Nam nên khi xảy ra tranh chấp (nếu có), việc khởi kiện ra tòa và thi hành án không dễ dàng. Tình huống 2: Một đồng nghiệp tại Bank C đã nhờ người viết tư vấn một tình huống liên quan đến LC được thông báo bằng MT 710 như sau: Company ABC (Pháp) ký hợp đồng nhập khẩu hạt điều nhân của Company XYZ (Việt Nam), thanh toán bằng LC trị giá 500.000 USD, cho phép chiết khấu trả ngay. LC được thông báo cho Company XYZ bằng MT 710 thông qua nhiều ngân hàng thông báo bao gồm Bank A ở Bờ Biển Ngà, Bank B ở UAE và Bank C ở Việt Nam. Trường 52D thể hiện tổ chức phát hành là Bank X ở Martinique. LC quy định chứng từ xuất trình thanh toán tại Bank C bằng hình thức chiết khấu. Company XYZ thực hiện giao hàng và xuất trình chứng từ phù hợp đến Bank C nhưng Bank C không thực hiện chiết khấu theo chỉ định mà gửi chứng từ đến Bank X theo chỉ thị của LC. Quá thời gian quy định Company XYZ vẫn không nhận được tiền thanh toán từ Bank X, trong khi thông tin từ hãng tàu cho thấy nhà nhập khẩu đã nhận hàng. Theo đề nghị của Company XYZ, Bank C gửi điện Swift đến Bank X yêu cầu gửi trả lại chứng từ nhưng không thể thực hiện được bởi Swift Code của Bank X ghi trên LC là giả mạo. Bank C tra cứu Bankers Almanac nhưng cũng không tìm thấy Bank X. Bank C cũng liên hệ Bank A và Bank B là các ngân hàng thông báo MT 710 để tìm hiểu về Bank X nhưng không nhận được trả lời từ các ngân hàng này. Company XYZ đang có ý định kiện Bank C ra tòa vì đã thông báo LC giả mạo. Câu hỏi: 1. Điện MT 710 Bank C nhận từ Bank B ở UAE có được xem là đã xác thực tính chân thực? 2. Nếu MT 710 là điện xác thực, Bank C có chịu trách nhiệm theo cáo buộc của Company XYZ về việc thông báo LC giả mạo? Phân tích và kết luận: 1. MT 710 là điện Swift xác thực tính chân thực bức điện giữa ngân hàng gửi và ngân hàng nhận. Do vậy, điện MT 710 Bank C nhận được từ Bank B được xem là đã được xác thực tính chân thực. 2. Tòa án sẽ quyết định Bank C có chịu trách nhiệm hay không tùy thuộc vào cách Bank C thông báo LC cho Company XYZ. Theo hướng dẫn của Swift, Field 52a của MT 710 là trường quy định tên tổ chức phát hành LC và có thể được thể hiện bằng Option A (52A) hoặc Option B (52D). Theo đó, 52A thể hiện tên ngân hàng bằng Swift Code tồn tại trên hệ thống, trong khi 52B thể hiện tên và địa chỉ của ngân hàng phát hành. Tình huống câu hỏi cho thấy bọn lừa đảo cố tình sử dụng Field 51D của MT 710 gây nhầm tưởng rằng tổ chức phát hành là một ngân hàng nhưng thực tế cho thấy tổ chức phát hành đó là không tồn tại. Nếu trước khi thông báo LC, Bank C thực hiện KYC ngân hàng phát hành thì đã phát hiện sự thật và không thông báo LC cho Company XYZ hoặc nếu có thông báo LC thì cũng sẽ cảnh báo Company XYZ về việc Swift Code của ngân hàng phát hành LC là không tồn tại trên hệ thống Swift. Bài học kinh nghiệm rút ra trong từ giao dịch LC này là cả Company XYZ và Bank C đã không thực hiện đúng quy trình thông báo, nhận và kiểm tra nội dung LC cũng như đã không thực hiện KYC các bên tham gia giao dịch LC, đặc biệt khi LC được thông báo bằng MT 710 lòng vòng qua nhiều ngân hàng không tên tuổi ở các quốc gia tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nếu quy trình này được các bên liên quan thực hiện nghiêm túc thì lẽ ra đã có thể phát hiện LC trên đây là giả mạo và cả nhà xuất khẩu lẫn ngân hàng không phải nhận trái đắng liên quan đến LC. Giải pháp phòng tránh rủi ro khi giao dịch với LC phát hành bởi TCPNH Những doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thường không để ý và không có khả năng phân biệt sự khác nhau giữa MT 700 và MT 710 cũng như không đủ khả năng nhận biết và đánh giá các rủi ro liên quan khi giao dịch với LC được phát hành hoặc thông báo thông qua các TCPNH, trong khi một số ngân hàng sử dụng mẫu thông báo chung khi thông báo LC thông qua điện MT 710 nên thường không lưu ý nhà xuất khẩu tình trạng phi ngân hàng của tổ chức phát hành LC. Thực tế gần đây cho thấy nhiều nhà xuất khẩu Việt Nam sau khi thực hiện giao hàng xuất trình chứng từ nhưng không nhận được thanh toán mới phát hiện LC không phải do ngân hàng mà một công ty phát hành. Nhằm hạn chế rủi ro liên quan đến LC phát hành dưới dạng MT 710, người viết đề xuất một số giải pháp sau đây: Đối với ngân hàng thông báo: Khi thông báo MT 710 do TCPNH phát hành, bên cạnh các điều kiện và điều khoản bất lợi cần lưu ý nhà xuất khẩu, ngân hàng thông báo cần kiểm tra Field 52a (Issuing Bank) và Field 50B (Non-Bank Issuer) để xác định LC được phát hành bởi ngân hàng hoặc TCPNH. Trường hợp LC được phát hành bởi TCPNH, ngân hàng thông báo phải có trách nhiệm lưu ý nhà xuất khẩu (người thụ hưởng) tình trạng phi ngân hàng của tổ chức phát hành để nhà xuất khấu cân nhắc chấp nhận hay từ chối. Ngân hàng thông báo cũng cần thực hiện kiểm tra ngay cả khi LC thể hiện tổ chức phát hành LC là ngân hàng, đặc biệt khi tổ chức phát hành được thể hiện ở Field 52D để bảo đảm rằng ngân hàng phát hành là có thật. Đối với nhà xuất khẩu: 1. Khi nhận thông báo LC bằng MT 710, nhà xuất khấu cần kiểm tra tổ chức phát hành là ngân hàng hay TCPNH. 2. Trường hợp LC được phát hành bởi TCPNH, kiểm tra lý do vì sao LC không được phát hành bởi ngân hàng. 3. Kiểm tra tình hình tài chính của tổ chức phát hành thông qua ngân hàng phục vụ. 4. Kiểm tra tình hình tài chính và kinh doanh của nhà nhập khẩu. 5. Kiểm tra lý do vì sao LC không được phát hành bởi ngân hàng. 6. Kiểm tra tất cả các điều kiện và điều khoản LC để bảo đảm có thể thực hiện và xuất trình chứng từ phù hợp. 7. Kiểm tra Field 40A và/hoặc Field 49 để nhận biết LC có được ngân hàng thống báo thứ nhất hoặc ngân hàng thông báo thứ hai xác nhận hay không. LC được xác nhận bởi ngân hàng có uy tín và tình hình tài chính lành mạnh là cơ sở để nhà xuất khẩu chấp nhận LC cho dù được phát hành bởi TCPNH. 8. Việc thực hiện giao dịch thành công phụ thuộc vào sự cảnh giác của nhà xuất khẩu trong việc kiểm tra khả năng tài chính của nhà nhập khẩu cũng như của tổ chức phát hành LC. Việc kiểm tra theo các gợi ý trên đây là cơ sở để nhà xuất khẩu cân nhắc quyết định chấp nhận LC hay không, nhất là khi LC được phát hành bởi TCPNH. Cuối cùng, người viết hi vong bài viết có thể giúp các ngân hàng, những nhà xuất khẩu và những người thực hành giao dịch LC nhận biết và cảnh giác hơn với những rủi ro liên quan đến LC phát hành bởi TCPNH thông quan MT 710. —— Tài liệu tham khảo: Nguyễn Hữu Đức (2006). Khi LC được phát hành bởi một tổ chức phi ngân hàng. Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 5 (203), trang 18-19.
IS THE NOMINATED BANK REQUIRED TO VERIFY WHETHER THE BENEFICIARY HAS AUTHORIZED THE PRESENTING BANK TO PRESENT THE DOCUMENTS?
IS THE NOMINATED BANK REQUIRED TO VERIFY WHETHER THE BENEFICIARY HAS AUTHORIZED THE PRESENTING BANK TO PRESENT THE DOCUMENTS?