Home Mr Old Man Articles NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA ISBP 821

NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA ISBP 821

52 min read
2
1
2,320

NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA ISBP 821

Nguyễn Hữu Đức

ISBP (International Standard Banking Practice for the Examination of Documents under Documentary Credits – Tập quán Ngân hàng Tiêu chuẩn Quốc tế về Kiểm tra Chứng từ theo Thư tín dụng) là tài liệu giải thích cách thức áp dụng các thông lệ được nêu trong UCP 600 và được xem như một cuốn cẩm nang hướng dẫn không thể thiếu đối với các ngân hàng, các công ty xuất nhập khẩu, các chuyên gia logistics, các công ty bảo hiểm… trong việc lập và kiểm tra các chứng từ xuất trình theo thư tín dụng (L/C) như hóa đơn, chứng từ vận tải, chứng từ bảo hiểm, giấy chứng nhận xuất xứ…

Ấn bản ISBP đầu tiên có tên gọi ISBP 645 được ICC ấn hành năm 2002 và lần lượt được cập nhật vào các năm 2007 với phiên bản ISBP 681, 2013 với phiên bản ISBP 745 và 2023 với phiên bản ISBP 821.

ISBP 821 Publication 7/2023 vẫn giữ nguyên bố cục, cấu trúc và các đề mục của ISBP 745 phiên bản 2013, chỉ cập nhật bổ sung 9 điểm mới được đề cập trong các Ý kiến được các Ủy ban Quốc gia ICC phê duyệt từ  trong thời gian từ 2013 đến 2023, cụ thể như sau:

Chứng từ xuất trình không thể hiện số L/C không phải là lý do để từ chối

Vấn đề chứng từ xuất trình không thể hiện số L/C theo yêu cầu của L/C có phải là bất hợp lệ có giá trị để từ chối hay không đã từng được Ủy ban Ngân hàng Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) trả lời nhiều lần tại các ý kiến R289, R645, R578, TA774 và mới nhất là Ý kiến TA876rev. Theo đó, ICC cho rằng yêu cầu chứng từ phải thể hiện số L/C thường là do chủ ý của ngân hàng phát hành nhằm có thể dễ dàng đối chiếu các chứng từ khi chúng bị lẫn với bộ chứng từ khác và kết luận rằng chứng từ xuất trình không thể hiện số L/C không phải là một bất hợp lệ có giá trị để từ chối. Trường hợp ngoại lệ được áp dụng khi  yêu cầu chứng từ phải thể thể hiện số L/C là yêu cầu của chính quyền hoặc hải quan của nước nhập khẩu. Trong trường hợp này, L/C phải nêu rõ đây là lý do vì sao  chứng từ phải phải thể hiện số L/C.

Trên cơ sở các ý kiến của ICC, ISBP 821 bổ sung vào phần Xem xét sơ bộ (Preliminary Condiserations) đoạn viii  với nội dung như sau:

“Yêu cầu chứng từ phải thể hiện số L/C thường là do chủ ý của ngân hàng phát hành nhằm tạo thuận tiện cho việc đối chiếu nếu một hoặc nhiều chứng từ bị tách ra khỏi bộ chứng từ xuất trình. Với điều kiện là ngân hàng phát hành đã nhận được tất cả các chứng từ quy định, việc thiếu số L/C hoặc việc đánh nhầm số đó trên chứng từ không phải là lý do để từ chối. Trường hợp ngoại lệ đối với quy định này là khi nước nhập khẩu yêu cầu số L/C phải được thể hiện trên một hoặc nhiều chứng từ. Trong những trường hợp như vậy, L/C phải nêu rõ rằng đây là lý do số L/C phải được thể hiện trên chứng từ đó hoặc các chứng từ đó”.

(A request to insert the credit number on a document is usually at the instigation of the issuing bank in order to facilitate the collation of documents should one or more documents become detached from the presentation. Provided all the stipulated documents are received by the issuing bank, the absence of a credit number or the mistyping of that number on a document does not constitute a reason for refusal. The exception to this position is where it is a requirement of the importing country that the credit number be stated on one or more documents. In such circumstances, the credit must clearly indicate that this is the reason for the number to be shown on that or those documents).

 Chứng từ xuất trình không kèm thêm một bộ bản sao không phải lý do  để từ chối

 Ý kiến TA915rev trả lời câu các câu hỏi liên quan đến tình huống L/C yêu cầu người thụ hưởng phải xuất trình thêm một bộ chứng từ bản sao để ngân hàng phát hành lưu hồ sơ và quy định điều kiện là các chứng từ xuất trình không được ghim lại.

Hai câu hỏi đặt ra:

  • Chứng từ xuất trình không kèm theo một bộ chứng từ bản sao có bất hợp lệ ?
  • Chứng từ xuất trình được ghim lại có bất hợp lệ?

Tại Ý kiến TA915rev ICC cho rằng các yêu cầu và điều kiện mang tính hành chính trên đây là do chủ ý của ngân hàng phát hành.  Chứng từ xuất trình không tuân thủ yêu cầu hoặc điều kiện đó không phải là lý do hợp lệ để ngân hàng phát hành từ chối. Ngân hàng phát hành không nên đưa yêu cầu hay điều kiện đó vào L/C. Ngân hàng được chỉ định cũng như người thụ hưởng không phải làm “những công việc hành chính” thay cho ngân hàng phát hành.

Kết luận của ICC tại kiến TA915rev được đưa vào ISBP 821 tại đoạn ix (Xem xét sơ bộ – Preliminary Considerations) như sau:

“Ngân hàng phát hành không được đưa vào L/C điều kiện mang tính hành chính như yêu cầu phải xuất trình thêm một bộ chứng từ bản sao để ngân hàng phát hành sử dụng hoặc quy định điều kiện là tất cả các chứng từ không được ghim lại. Tuy nhiên, nếu những điều kiện như thế được đưa vào L/C nhưng không được tuân thủ thì đây sẽ không phải là lý do để từ chối”.

(An issuing bank should not incorporate in a credit administrative condition such as a requirement for an additional set of copy documents to be presented for the issuing bank’s use or a condition that all documents may not be stapled. If, nevertheless, such conditions are incorporated into a credit but not complied with, this will not constitute a reason for refusal).

 Bổ sung thêm từ “Industries” vào mục “Các từ viết tắt”

 Liên quan đến tình huống ngân hàng phát hành từ chối chứng từ thể hiện tên người mở L/C bằng từ viết tắt là “Ind” thay vì “Industries”. Tại Ý kiến TA837rev, ICC cho rằng đó không phải là bất hợp lệ. ISBP 745 đoạn A1 có liệt kê một số từ viết tắt có thể chấp nhận, trong đó “Ind” là từ viết tắt của “industry”.

Trên cơ sở Ý kiến TA837rev để làm rõ hơn từ viết tắt “Ind”, ISBP 821 bổ sung đoạn A1 (Các từ viết tắt – Abbreviations). Theo đó, “Ind.” được hiểu là từ viết tắt thay cho “Industry” hoặc “Industries”.

Tên, địa chỉ và thông tin liên hệ của người yêu cầu mở L/C không bắt buộc phải xuất hiện ở một ô, trường hay vị trí cụ thể trên hóa đơn; những thông tin này không nhất thiết phải được xác định bằng tiêu đề “Người yêu cầu mở L/C”

Ý kiến TA818rev liên quan đến tên, địa chỉ và thông tin liên hệ của người yêu cầu mở L/C trên hóa đơn như sau:

Hóa đơn xuất trình không có tiêu đề “Người yêu cầu mở L/C” (Applicant} nhưng vẫn thể hiện tên và địa chỉ đầy đủ chính xác của người yêu cầu mở L/C dưới tiêu đề ‘Khách hàng’ (Customer),

Ngân hàng phát hành cho rằng hóa đơn bất hợp lệ vì không có chỗ nào thể hiện người yêu cầu mở L/C, tức là ngụ ý rằng hóa đơn phải có tiêu đề “Người yêu cầu mở L/C”.

Tại Ý kiến 818rev, ICC cho rằng UCP 600 hoặc ISBP 745 không yêu cầu tên và địa chỉ của người yêu cầu mở L/C phải xuất hiện ở một vị trí cụ thể trong hóa đơn. Nếu tên của người yêu cầu mở L/C xuất hiện ở đâu đó trên hóa đơn thì hóa đơn phù hợp với Điều 18 (a) (ii) UCP 600.

Kết luận của ICC tại Ý kiến 818rev  được đưa vào ISBP 821 tại đoạn A17 (b) như sau:

“Không có yêu cầu bắt buộc tên, địa chỉ và thông tin liên hệ của người yêu cầu mở L/C (nếu có) phải xuất hiện trong một ô, trường hoặc một vị trí cụ thể trên hóa đơn. Những thông tin này không nhất thiết phải được xác định bằng tiêu đề hoặc tiền tố “Người yêu cầu mở L/C””.

(There is no requirement for the applicant name, address and contact details ( if any) to appear in a specific box, field or space on an invoice. These details need not be identified by the heading or prefix “Applicant”)

Các bản sao chứng từ không cần được ký ngay cả khi L/C yêu cầu tất cả chứng từ phải được ký bằng tay

Tình huống nêu tại Ý kiến TA842rev3 liên quan đến câu hỏi liệu yêu cầu “Tất cả các chứng từ phải ký bằng tay” có áp dụng đối với bản sao hóa đơn.

LC yêu cầu “Tất cả chứng từ phải được ký bằng tay”.  Ngân hàng phát hành từ chối chứng từ nêu bất hợp lệ “Một bản sao hóa đơn không được ký bằng tay”.

Tại Ý kiến 842rev3, ICC cho rằng ISBP 745 đã nêu rõ rằng các bản sao chứng từ không cần được ký cũng không cần đề ngày tháng và kết luận rằng bất hợp lệ ngân hàng phát hành nêu không có giá trị từ chối.

Kết luận của ICC tại Ý kiến 842rev3 được đưa vào ISBP 821 tại đoạn A31 (b) và (c) như sau:

“A31 (b). Các bản sao chứng từ không cần được ký, ngay cả khi L/C quy định tất cả chứng từ phải được ký bằng tay.

A31 (c). Các bản sao chứng từ không cần ghi ngày tháng”.

(A31 (b). Copies of documents need not be signed, even when a credit states that all  documents are to be manually signed; A31 (c). Copies of documents need not be dated)

L/C được phát hành bằng USD, có thể chấp nhận hóa đơn thể hiện loại tiền dưới dạng ký hiệu “$” trừ khi…

Tình huống câu hỏi tại Ý kiến TA814rev4 như sau:

L/C phát hành thể hiện loại tiền là USD, trong khi hóa đơn xuất trình thể hiện loại tiền bằng ký hiệu $ thay vì USD.

Ngân hàng phát hành từ chôi chứng từ với lý do loại tiền tệ không phù hợp với Điều 18 (a) (iii) UCP 600 và đoạn C6 (6) ISBP 745.

Ngân hàng được chỉ định bác bỏ từ chối của ngân hàng phát hành và cho rằng ký hiệu $ được quốc tế công nhận  và được sử dụng thường xuyên để biểu thị USD. Cuối cùng ngân hàng phát hành cũng đồng ý thanh toán nhưng vẫn trừ phí bất hợp lệ.

Tại Ý kiến 814rev4, ICC kết luận rằng đối với L/C được phát hành bằng USD, hóa đơn xuất trình thể hiện loại tiền bằng ký hiệu ‘$’ mà không có điều kiện bổ sung, là phù hợp Điều 18 (a) (iii) UCP 600. Ngoại lệ duy nhất là nếu dữ liệu trên hóa đơn hoặc bất kỳ chứng từ nào khác ám chỉ ký hiệu $ có thể đề cập đến một loại tiền tệ khác không phải là USD. Ví dụ: dữ liệu cho thấy người thụ hưởng cư trú tại một quốc gia có loại tiền tệ thường được gọi bằng ký hiệu $ như Úc, Canada, Singapore, v.v.

Kết luận của ICC tại Ý kiến 814rev4 được đưa vào ISBP 821 tại đoạn C7 như sau:

“Khi L/C được phát hành bằng USD và loại tiền tệ trong hóa đơn được thể hiện bằng ký hiệu $ mà không có điều kiện nào khác thì hóa đơn  thỏa mãn yêu cầu của Điều khoản 18 (a) (iii) UCP 600 về việc lập hóa đơn cùng loại tiền tệ với L/C, trừ khi dữ liệu trên hóa đơn, chẳng hạn như nơi cư trú của người thụ hưởng ở quốc gia có đồng tiền được mệnh giá bằng đô la và/hoặc thường được gọi bằng ký hiệu $, hoặc chứng từ được xuất trình khác ngụ ý rằng ký hiệu $ có thể đề cập đến một loại tiền tệ khác không phải USD”.

(When a credit is issued in USD, and the invoice currency is shown as a “$” sign, without further qualification, the invoice will fulfil the requirement of UCP 600 sub-article 18 (a) (iii) of being made out in the same currency as the credit, unless data in the invoice itself, such as the domicile of the beneficiary is in a country whose currency is denominated in dollars and/or is commonly referred to with a “$” sign, or another presented document implies that the “$” sign may refer to a currency other than USD).

Khi thuyền trưởng ký chứng từ vận tải đa phương thức, vận đơn đường biển hoặc giấy gửi hàng đường biển, chữ ký của thuyền trưởng có thể kèm theo dấu tên tàu

Ý kiến TA.813rev liên quan đến chữ ký của thuyền trưởng trên vận đơn đa phương thức với tình huống như sau:

Vận đơn xuất trình được thuyền trưởng ký, ngoài ra, còn có dấu thể hiện tên của hãng tàu và tên của nhà chuyên chở.

Ngân hàng phát hành cho rằng chứng từ không hợp lệ do chữ ký của bên phát hành trên vận đơn không khớp với chữ ký của người chuyên chở.

Tuy nhiên, ICC cho rằng, vận đơn được thuyền trưởng ký và chữ ký đó được xác định là của thuyền trưởng nên nó phù hợp với Điều19 (a) (i) UCP 600. Dấu tên đó thường được gọi là ‘dấu của tàu’.

Kết luận của ICC tại Ý kiến TA.813rev  được đưa vào ISBP 821 tại các đoạn D5 (e), E5 (e) và F4 (e) như sau:

“D5 (e). Khi thuyền trưởng ký chứng từ vận tải đa phương thức, chữ ký có thể kèm theo dấu tên tàu. Kể cả khi dấu đó còn nêu cả tên chủ tàu, chứng từ vận tải đa phương thức vẫn được coi là đã được thuyền trưởng ký. Dấu này thường được gọi là “dấu của tàu””.

(When the master (captain) signs a multimodal transport document, the signature may be accompanied by a stamp that incorporates the name of the vessel. Even if the stamp also mentions the name of the owner, the multimodal transport document will be considered to have been signed by the master (captain). This stamp is often referred to as the “ship’s stamp”).

“E5 (e). Khi thuyền trưởng ký vận đơn đường biển, chữ ký có thể kèm theo dấu tên tàu. Kể cả khi dấu đó còn nêu cả tên chủ tàu, vận đơn vẫn được coi là đã được thuyền trưởng ký. Dấu này thường được gọi là “dấu của tàu””.

(When the master (captain) signs a bill of lading, the signature may be accompanied by a stamp that incorporates the name of the vessel. Even if the stamp also mentions the name of the owner, the bill of lading will be considered to have been signed by the master (captain). This stamp is often referred to as the “ship’s stamp”).

 “F4 (e). Khi thuyền trưởng ký giấy gửi hàng đường biển không được chuyển nhượng, chữ ký có thể kèm theo dấu tên tàu. Kể cả khi dấu đó còn nêu cả tên chủ tàu, giấy gửi hàng đường biển không thể chuyển nhượng vẫn được coi là đã được thuyền trưởng ký. Dấu này thường được gọi là “dấu của tàu””.

(When the master (captain) signs a non-negotiable sea waybill, the signature may be accompanied by a stamp that incorporates the name of the vessel. Even if the stamp also mentions the name of the owner, the non-negotiable sea waybill will be considered to have been signed by the master (captain). This stamp is often referred to as the “ship’s stamp”).

 Khi thuyền trưởng ký vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, chữ ký của thuyền trưởng có thể kèm theo dấu tên tàu

Ý kiến TA.836rev liên quan đến tình huống vận đơn theo hợp đồng thuê tàu được ký bởi thuyền trưởng nhưng cũng có thêm dấu thể hiện tên tàu và tên của chủ tàu. Câu hỏi đặt ra là chữ ký và  dấu  tên đó có gây ra mâu thuẫn trong việc xác định năng lực của người ký vận đơn.

Ủy ban Ngân hàng ICC cho rằng thuyền trưởng đã ký vận đơn bằng tay với tên của nthuyền trưởng trong trường chữ ký, cả chữ ký và năng lực của người ký đều được xác định là phù hợp với yêu cầu của UCP.

Kết luận của ICC tại Ý kiến TA836rev  được đưa vào ISBP 821 tại đoạn G4 (c) như sau:

“Khi thuyền trưởng ký vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, chữ ký có thể kèm theo dấu tên tàu. Kể cả khi dấu đó còn nêu cả tên chủ tàu, vận đơn theo hợp đồng thuê tàu vẫn được coi là đã được thuyền trưởng ký. Dấu này thường được gọi là “dấu của tàu””.

(When the master (captain) signs a charter party bill of lading, the signature may be accompanied by a stamp that incorporates the name of the vessel. Even if the stamp also mentions the name of the owner, the charter party bill of lading will be considered to have been signed by the master ( captain).This stamp is often referred to as the “ ship’s tamp”).

 Chứng từ bảo hiểm được ký bởi đại lý hoặc người ủy quyền thì không cần phải nêu tên đại lý hoặc người ủy quyền

Về câu hỏi liệu chứng từ bảo hiểm được ký bởi người ủy quyền có phải hiển thị tên của người được ủy quyền hay không, tại Ý kiến TA835rev, ICC trả lời rằng UCP 600 không yêu cầu phải có tên đại lý hoặc người được ủy quyền trong chứng từ bảo hiểm.

Kết luận của ICC tại Ý kiến TA835rev  đã được đưa vào ISBP 821 tại đoạn K2 (b) như sau:

“Khi chứng từ bảo hiểm được ký bởi một đại lý hoặc người được ủy quyền, thay mặt cho công ty bảo hiểm hoặc nhà bảo hiểm, thì không cần phải nêu tên của đại lý hoặc người được ủy quyền”.

(When an insurance document appears to have been signed by an agent or proxy, for or on behalf of the insurance company or underwriter, the name of the agent or proxy need not be stated).

KẾT LUẬN

Như đã nói ở phần mở đầu, ISBP 821 Publication 7/2023 vẫn giữ nguyên bố cục, cấu trúc và các đề mục của ISBP 745 phiên bản 2013, chỉ cập nhật bổ sung nội dung mới được đề cập trong chín (9) Ý kiến được các Ủy ban Quốc gia ICC phê duyệt từ  trong thời gian từ 2013 đến 2023.

Hi vọng bài viết này có thể giúp bạn đọc quan tâm, đặc biệt là các nhân viên/chuyên viên tài trợ thương mại tại các ngân hàng cũng như các nhân viên/chuyên viên xuất nhập khẩu tại các doanh nghiêp nắm bắt nhanh ISBP 821 và áp dụng có hiệu quả trong việc lập và kiểm tra chứng từ xuất trình theo L/C./.

Tài liệu tham khảo:

  • International Standard Banking Practice for Examination of Documents under Documentary Credits – ISBP 2013 ICC Publication No. 745
  • International Standard Banking Practice for Examination of Documents under Documentary Credits – ISBP 2023 ICC Publication No. 821
  • ICC Official Opinions 876rev; 915rev; 837rev; 818rev; 843rev3; 814rev4; 813; 836rev; 835rev

——

 

Load More Related Articles
Load More By Mr Old Man
Load More In Articles

2 Comments

  1. Faisal Zaheer

    December 6, 2023 at 8:24 pm

    A carrier issued a bill of lading on 1 November, 20XX.

    The goods were not as of then shipped on board, so the Carrier estimated a shipment date of 4 November, 20XX, for inclusion in the bill of lading.

    The beneficiary presented documents on 5 November, 20XX.

    The presentation included the bill of lading with the issuance date of November 1, 20XX and on board date of
    November 4, 20XX.

    From the information available, is this a discrepancy?

    Reply

    • Mr Old Man

      December 6, 2023 at 8:31 pm

      Banks deal with documents and not with goods. There is no discrepancy.

      Reply

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Check Also

WHAT IS THE IMPACT OF EXCLUSION OF UCP 600 SUB-ARTICLE 12b?

QUESTION Dear Mr. Old Man, I hope my email finds you doing well I would ask you if the iss…