Articles Mr Old Man Payment LIỆU KHÁI NIỆM “CHIẾT KHẤU” CÓ NÊN TIẾP TỤC TỒN TẠI TRONG UCP? By Mr Old Man Posted on January 20, 2025 43 min read 0 0 222 Share on Facebook Share on Twitter Share on Google+ Share on Reddit Share on Pinterest Share on Linkedin Share on Tumblr Về vấn đề chiết khấu (negotiation) trong giao dịch thư tín dụng, gần 20 năm trước Mr. Old Man đã có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí ngành tài chính – ngân hàng như: Bàn về vấn đề chiết khấu trong giao dịch thư tín dụng (Tạp chí Ngân hàng số 10 tháng 5/2007); Bàn về thuật ngữ “negotiation” trong giao dịch thư tín dụng (Thị trường Tài chính -Tiền tệ số 14 tháng 7/2006); UCP 600 có gì mới ? (Tạp chí Ngân hàng số 14 tháng 7/2006); UCP 600 trước giờ G (Tạp chí Ngân hàng số 22 tháng 10/2006) … ICC đang dự thảo sửa đổi UCP. Nhân sự kiện này, Mr. Old Man lại bàn về việc liệu khái niệm chiết khấu có nên tiếp tục tồn tại trong UCP? Nguyễn Hữu Đức Quá trình sửa đổi UCP trong thời gian gần đây đã có những cuộc tranh luận về câu hỏi “Liệu khái niệm “chiết khấu” (negotiation) có nên tiếp tục tồn tại trong phiên bản sửa đổi UCP tương lai?”. Trong đó, không ít chuyên gia cho rằng ICC nên loại bỏ loại LC thanh toán bằng hình thức chiết khấu khỏi phiên bản sửa đổi UCP sắp tới, trong khi đó nhiều chuyên gia lại cho rằng khái niệm “chiết khấu” nên tiếp tục được giữ lại là một trong những hình thức thanh toán trong UCP với một định nghĩa rõ ràng hơn. Trước đây người viết bài này từng có nhiều bài viết đăng trên Tạp chí Ngân hàng và Tạp chí Thị trường Tài chính – Tiền tệ bàn về thuật ngữ “chiết khấu” và vấn đề chiết khấu trong giao dịch LC trong UCP 500 và UCP 600. Nhân sự kiện UCP 600 đang được ICC tiến hành sửa đổi, người viết bài này xin được một lần nữa bàn về khái niệm “chiết khấu”, liệu có nên tiếp tục duy trì hình thức LC này trong UCP phiên bản tương lai. Nguốn gốc thuật ngữ “negotiation” Thông tư 21/2024/TT-NHNH ban hành ngày 26/06/2024 quy định về nghiệp vụ thư tín dụng và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến thư tín dụng gọi nghiệp vụ này là “thương lượng thanh toán”. Tuy nhiên, trong bài viết này, người viết dùng từ “chiết khấu” để phù hợp với cách hiểu của đại đa số người thực hành thanh toán quốc tế. Thuật ngữ “negotiation” trong UCP vốn khó hiểu. Ngày cả khi được chuyển ngữ sang một ngôn ngữ khác, “negotiation” cũng có những tên gọi khác nhau. Trong các bản dịch tiếng Việt, “negotiation” khi thì được dịch là “chiết khấu”, khi thì là “thương lượng” hay “thương lượng thanh toán”. “Chiết khấu” được dịch dựa trên bản chất của nghiệp vụ, tức là mua hối phiếu/chứng từ với giá thấp hơn số tiền ghi trên hối phiếu/chứng từ hay mua với giá chiết khấu (purchase at a discount), trong khi “thương lượng” được chuyển ngữ sát theo nghĩa thông thường của từ “negotiation” là “thương lượng”. Thuật ngữ “negotiation” xuất hiện trong UCP từ rất sớm và những định nghĩa về thuật ngữ này từng được cho là khó hiểu và phải thay đổi sau nhiều lần sửa đổi UCP. Nếu như UCP 82 (Ấn bản đầu tiên ICC1933) Điều 38 quy định thư tín dụng chỉ có một hình thức thanh toán là thanh toán ngay (available by payment) khi chứng từ phù hợp xuất trình trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng thì các phiên bản sửa đổi UCP sau này đã mở rộng hình thức thanh toán, theo đó thư tín dụng có thể thanh toán bằng các hình thức khác như chiết khấu (available by negotiation), chấp nhận (available by acceptance) và trả chậm (available by deferred payment). Cụ thể: UCP 151 (Bản sửa đổi ICC 1951), Điều 10 quy định thư tín dụng có thể thanh toán bằng hình thức chấp nhận và chiết khấu. UCP 222 (Bản sửa đổi ICC 1962), Điều 35 quy định thư tín dụng có thể thanh toán bằng cách hình thức thanh toán ngay, chấp nhận và chiết khấu tại một ngân hàng được ủy quyền. UCP 290 (Bản sửa đổi ICC 1974), Điều khoản chung & Định nghĩa (e) đưa ra khái niệm thư tín dụng có thể được chiết khấu tự do tại bất kỳ ngân hàng nào (freely negotiable by any bank) UCP 400 (Bản sửa đổi ICC 1983) nêu rõ thư tín dụng thanh toán bằng hình thức chiết khấu tại ngân hàng bất kỳ thì ngân hàng bất kỳ là ngân hàng được chỉ định (nominated bank). UCP 500 (Bản sửa đổi ICC 1993), Điều 10 đưa ra định nghĩa thuật ngữ “negotiation” như sau: “Chiết khấu có nghĩa là sự định giá và trả tiền hối phiếu và/hoặc chứng từ bởi một ngân hàng được uỷ quyền thực hiện” (Negotiations means the giving of the value for Draft(s) and/or document(s) by the bank authorized to negotiate). Định nghĩa thuật ngữ “negotiation” tại Điều 10 UCP 500, theo các chuyên gia, là không rõ ràng khiến những người thực hành thư tín dụng thời đó hiểu theo cách riêng của mình, thậm chí sử dụng nó một cách méo mó đến mức khi dự thảo sửa đổi UCP, nhiều chuyên gia còn đề nghị loại bỏ thuật ngữ “negotiation” ra khỏi UCP 600. Tuy nhiên, cuối cùng nó được giữa lại với một định nghĩa rõ ràng hơn. UCP 600 (Bản sửa đổi ICC 2007) Điều 2 thay đổi định nghĩa thuật ngữ “negotiation” của UCP 500 như sau: “Chiết khấu có nghĩa là việc ngân hàng được chỉ định mua các hối phiếu (ký phát đòi tiền một ngân hàng khác, không phải ngân hàng được chỉ định) và/hoặc các chứng từ, bằng cách ứng trước hoặc đồng ý ứng trước tiền cho người thụ hưởng vào hoặc trước ngày làm việc của ngân hàng mà khoản hoàn trả phải được thực hiện cho ngân hàng được chỉ định”. (Negotiation means the purchase by the nominated bank of drafts (drawn on a bank other than the nominated bank) and/or documents, by either advancing or agreeing to advance funds to the beneficiary on or before the banking day on which reimbursement is due to the nominated bank). So với định nghĩa tại Điều 10 (b)(ii) UCP 500, định nghĩa mới tại Điều 2 UCP 600 rõ ràng và dễ hiểu hơn rất nhiều. Cụm từ “the giving of the value” tại Điều 10 (b)(ii) UCP 500 nổi tiếng vì sự khó hiểu nay được thay thế bằng từ “purchase” (mua) rất đơn giản, đó là việc ngân hàng được chỉ định (NHĐCĐ) mua các hối phiếu và/hoặc các chứng từ bằng cách trả tiền trước hoặc đồng ý trả tiền trước cho người hưởng lợi vào ngày hoặc trước ngày ngân hàng chiết khấu nhận được tiền hoàn trả từ ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận (nếu có). Trong UCP 600 khái niệm chiết khấu được áp dụng đối với loại LC thanh toán bằng hình thức chiết khấu (LC available by negotiation). Theo đó, ngân hàng phát hành ủy quyền cho ngân hàng được chỉ định thực hiện chiết khấu khi chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện và điều khoản của LC và cam kết hoàn trả cho ngân hàng chiết khấu. Tùy theo LC quy định, ngân hàng được chỉ định có thể là một một ngân hàng được chỉ định đích danh (a named nominated bank) hoặc là một ngân hàng bất kỳ (any bank) hoặc là một ngân hàng xác nhận (confirming bank). Ngân hàng được chỉ định có thể từ chối chiết khấu hoặc đồng ý chiết khấu miễn truy đòi hoặc có truy đòi. Tuy nhiên, ngân hàng xác nhận phải chiết khấu miễn truy đòi khi chứng từ xuất trình phù hợp. “Chiết khấu” sẽ tiếp tục tồn tại trong UCP? Trong các cuộc tranh luận về nghiệp vụ thanh toán quốc tế không ít chuyên gia cho rằng nên loại bỏ loại LC thanh toán bằng hình thức chiết khấu. Ý kiến của Laurence Bacon là một ví dụ điển hình. Laurence Bacon cho rằng quyết định chiết khấu thường mang tính thương mại, chứ không phải dựa trên quy tắc UCP. Do vậy, việc loại bỏ khái niệm “chiết khấu” khỏi phiên bản UCP trong tương lai sẽ không ngăn cản ngân hàng thực hiện chiết khấu. Bob Ronai, chuyên gia ICC, cho rằng chiết khấu là một thỏa thuận riêng tư giữa ngân hàng chiết khấu và người thụ hưởng. Ngân hàng chiết khấu quyết định có chiết khấu hay không dựa trên đánh giá rủi ro của họ về ngân hàng phát hành. Trường hợp chiết khấu có truy đòi. ngân hàng chiết khấu cũng sẽ đánh giá xem người thụ hưởng có khả năng hoàn trả khoản thanh toán trước hay không nếu ngân hàng phát hành không thực hiện thanh toán. Do đó, có một hình thức hợp đồng giữa ngân hàng chiết khấu và người thụ hưởng nêu rõ các điều khoản và điều kiện của khoản thanh toán trước này và không liên quan đến ngân hàng phát hành. Nó không được kiểm soát bởi ngân hàng phát hành và do đó không có ý nghĩa gì khi có khái niệm được đề cập trong UCP600. Người viết bài này có cuộc tranh luận khá dài với Bob Ronai trên LinkedIn. Theo quan điểm của người viết, chiết khấu nên tiếp tục tồn tại trong UCP bởi cho đến bây giờ LC là phương thức thanh toán chiếm một tỷ trọng lớn ở các nước đang phát triển, trong đó LC thanh toán bằng hình thức chiết khấu được ghi nhận là chiếm từ 70-75% các loại LC. Về tính pháp lý, một khi phát hành LC thanh toán bằng hình thức chiết khấu tại ngân hàng được chỉ định, ngân hàng phát hành ủy xem như đã quyền cho ngân hàng được chỉ định thực hiện chiết khấu khi chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện và điều khoản của LC và cam kết hoàn trả cho ngân hàng chiết khấu. Do vậy, khi người thụ hưởng xuất trình chứng từ phù hợp và đề nghị ngân hàng chiết khấu, ngân hàng được chỉ định sẽ mạnh dạn chiết khấu vì chắc chắn sẽ được ngân hàng phát hành hoàn trả và có thể nhân danh chính mình để khởi kiện ngân hàng phát hành trong trường hợp không nhận được tiền hoàn trả. Thực tế cho thấy vấn đề rắc rối không nằm ở LC thanh toán bằng hình thức chiết khấu mà chính là hối phiếu xuất trình theo LC này mới là vấn đề bởi có quá nhiều tranh cãi liên quan đến việc hối phiếu có được xem là chứng từ xuất trình theo LC và sai sót trên hối phiếu có cấu thành lý do có giá trị để ngân hàng phát hành từ chối hoàn trả tiền cho ngân hàng chiết khấu. Theo ý kiến của người viết là phiên bản UCP tương lai vẫn nên giữ lại khải niệm chiết khấu và LC thanh toán bằng hình thức chiết khấu, chỉ cần loại bỏ hối phiếu khỏi loại LC này theo kết luận và khuyến nghị của Tài liệu hướng dẫn của ICC về việc sử dụng hối phiếu trong LC (ICC in the Guidance Paper- The Use of Drafts under Documentary Credit). Trong bài viết “Should “Negotiation” Continue to be a Form of Availability within UCP?”, Dave Meynell – Cố vấn Kỹ thuật Cấp cao của Ủy ban Ngân hàng ICC – đề xuất một định nghĩa mới về thuật ngữ “chiết khấu” cho phiên bản sửa đổi UCP như sau: “Chiết khấu là hành động mà ngân hàng được chỉ định theo thư tín dụng thanh toán bằng hình thức chiết ứng trước tiền hoặc đồng ý ứng trước tiền cho người thụ hưởng khi xuất trình chứng từ phù hợp, trước khi nhận được tiền hoàn trả từ ngân hàng phát hành. Khoản ứng trước hoặc thỏa thuận ứng trước tiền này diễn ra vào hoặc trước ngày ngân hàng làm việc mà khoản hoàn trả phải trả cho ngân hàng được chỉ định. Chiết khấu không liên quan đến việc mua hối phiếu và/hoặc chứng từ, mà là việc cung cấp tài chính dựa trên đánh giá của ngân hàng được chỉ định về việc xuất trình chứng từ phù hợp và nghĩa vụ hoàn trả của ngân hàng phát hành”. (Negotiation is the act by which a nominated bank, under a credit available by negotiation, advances funds or agrees to advance funds to the beneficiary against a complying presentation of documents, prior to receiving reimbursement from the issuing bank. This advance or agreement to advance funds occurs on or before the banking day on which reimbursement is due to the nominated bank. Negotiation does not involve the purchase of drafts and/or documents, but rather the provision of financing based on the nominated bank’s assessment of the complying presentation and the issuing bank’s obligation to reimburse). Theo Dave Meynell, định nghĩa mới này loại bỏ khái niệm “mua” hối phiếu và/hoặc chứng từ. Nó cũng loại bỏ tham chiếu đến hối phiếu ký phát đòi tiền ngân hàng khác ngoài ngân hàng được chỉ định, điều này hỗ trợ mục tiêu của ICC là khiến hối phiếu trở nên ít phổ biến hơn trong thực tế. Về bản chất, nó nhấn mạnh khía cạnh tài chính của chiết khấu, đây là chức năng cốt lõi trong tài chính thương mại hiện đại, làm rõ rằng chiết khấu là hành động của ngân hàng được chỉ định, phân biệt nó với các hình thức thanh toán khác. Nói thật, ngoài việc loại bỏ hối phiếu, định nghĩa theo đề xuất của Dave Meynell cũng phức tạp. Nếu được yêu cầu đưa ra một định nghĩa mới cho khái niệm chiết khấu, người viết mạo muội đề xuất một định nghĩa đơn giản như sau: “Chiết khấu là việc ngân hàng được chỉ định mua các chứng từ phù hợp được xuất trình theo thư tín dụng thanh toán bằng hình thức chiết khấu bằng cách ứng trước tiền hoặc đồng ý ứng trước tiền cho người thụ hưởng vào hoặc trước ngày ngân hàng mà khoản hoàn trả phải được chuyển cho ngân hàng được chỉ định”. (Negotiation is the act of a nominated bank purchasing complying documents presented under a credit available by negotiation by advancing funds or agreeing to advance funds to the beneficiary on or before the banking day on which reimbursement is due to the nominated bank). Ngoại trừ hối phiếu được loại bỏ, định nghĩa trên vẫn giữ nguyên tinh thần của định nghĩa “negotiation” tại điều 2 UCP 600. Điều này phù hợp với khuyến nghị của ICC theo Tài liệu hướng dẫn về việc sử dụng hối phiếu trong LC./. — Tài liệu tham khảo: – Dave Meynell (2024). Should “Negotiation” Continue to be a Form of Availability within UCP? DCW 10/2024 – Nguyễn Hữu Đức (2007). Bàn về vấn đề chiết khấu trong giao dịch thư tín dụng. Tạp chí Ngân hàng số 10 tháng 5/2007 – Nguyễn Hữu Đức (2006). Bàn về thuật ngữ “negotiation” trong giao dịch thư tín dụng. Thị trường Tài chính -Tiền tệ số 14 tháng 7/2006 – Nguyễn Hữu Đức (2006). UCP 600 có gì mới ? Tạp chí Ngân hàng số 14 tháng 7/2006 – Nguyễn Hữu Đức (2006). UCP 600 trước giờ G ? Tạp chí Ngân hàng số 22 tháng 10/2006
IS THE NOMINATED BANK REQUIRED TO VERIFY WHETHER THE BENEFICIARY HAS AUTHORIZED THE PRESENTING BANK TO PRESENT THE DOCUMENTS?
CAN THE ISUING BANK CITE “LATE PRESENTATION” AS A DISCREPANCY SOLELY BASED ON THE DATE OF THE COVER LETTER?
IS THE NOMINATED BANK REQUIRED TO VERIFY WHETHER THE BENEFICIARY HAS AUTHORIZED THE PRESENTING BANK TO PRESENT THE DOCUMENTS?
CAN THE ISUING BANK CITE “LATE PRESENTATION” AS A DISCREPANCY SOLELY BASED ON THE DATE OF THE COVER LETTER?