Home Mr Old Man Articles HƯỚNG DẪN CỦA ICC VỀ TÁC ĐỘNG CỦA COVID – 19 ĐỐI VỚI CÁC GIAO DỊCH TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI TUÂN THỦ CÁC QUY TẮC ICC

HƯỚNG DẪN CỦA ICC VỀ TÁC ĐỘNG CỦA COVID – 19 ĐỐI VỚI CÁC GIAO DỊCH TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI TUÂN THỦ CÁC QUY TẮC ICC

121 min read
0
0
5,126
China’s state banks close branches as coronavirus spreads
– Photo by Euromoney

Dịch virus corona chủng mới (COVID – 19) đang lan rộng toàn cầu khiến hàng triệu người mắc bệnh và hàng trăm ngàn người tử vong. Sự lây lan của COVID – 19 là một cuộc khủng hoảng y tế tác động đến nền kinh tế toàn cầu; hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu… bị đình trệ do một số quốc gia tuyên bố phong tỏa cục bộ hoặc toàn quốc nhằm hạn chế dịch bệnh lây lan.
Trong bối cảnh này hoạt động thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại tại các ngân hàng cũng bị ảnh hưởng, câu hỏi đặt ra là đại dịch COVID – 19 có được xem là sự kiện bất khả kháng đối với các ngân hàng liên quan trong các giao dịch tài trợ thương mại tuân thủ theo các quy tắc của ICC hay không.

Mới đây ICC cũng đã ban hành Hướng dẫn về tác động của COVID – 19 đối với các giao dịch tài trợ thương mại tuân thủ các quy tắc ICC. Mục đích của hướng dẫn là chia sẻ các quan điểm thực tế và hướng dẫn của các chuyên gia quản trị các giao dịch tài trợ thương mại trong suốt thời gian rất đặc biệt này.

Người viết bài này xin chia sẻ các bạn đọc quan tâm là những người làm trong lĩnh vực thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại tại ngân hàng và các công ty xuất nhập khẩu một số thông tin liên quan đến hướng dẫn trên.

SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG THEO CÁC QUY TẮC ICC

Hầu hết các quy tắc ICC điều chỉnh các giao dịch tài trợ thương mại như thư tín dụng (LC), bảo lãnh, nhờ thu chứng từ… đều có các điều quy định về sự kiện bất khả kháng, cụ thể như sau:

UCP 600 Điều 36: Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện phát sinh làm gián đoạn hoạt động của ngân hàng như thiên tai, bạo động, dân biến, nổi dậy, chiến tranh, hành động khủng bố hoặc do đình công, bế xưởng hoặc bất cứ nguyên nhân nào khác vượt quá sự kiểm soát của ngân hàng.

URDG 758 Điều 26: Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện như thiên tai, bạo động, dân biến, nổi dậy, chiến tranh, hành động khủng bố hoặc bất cứ nguyên nhân nào khác vượt quá sự kiểm soát của bên bảo lãnh hoặc bên bảo lãnh đối ứng làm gián đoạn hoạt động của bên bảo lãnh hoặc bên bảo lãnh đối ứng.

URC 522 Điều 15: Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện như thiên tai, bạo động, dân biến, nổi dậy, chiến tranh, hành động khủng bố hoặc bất cứ nguyên nhân nào khác vượt quá sự kiểm soát của ngân hàng hoặc đình công hoặc bế xưởng.

URR 725 Điều 15: Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện phát sinh làm gián đoạn hoạt động của ngân hàng như thiên tai, bạo động, dân biến, nổi dậy, chiến tranh, hành động khủng bố hoặc do đình công, bế xưởng hoặc bất cứ nguyên nhân nào khác vượt quá sự kiểm soát của ngân hàng.

eUCP Phiên bản 2.0 Điều e14 và eURC Phiên bản 1.0 Điều e13: Sự kiện bất khả kháng là các hậu quả phát sinh do việc gián đoạn hoạt động của ngân hàng, bao gồm nhưng không hạn chế đối với sự mất khả năng truy cập hệ thống dữ liệu, hoặc do lỗi thiết bị, phần mềm hoặc mạng lưới truyền tải thông tin, gây ra bởi thiên tai, bạo loạn, dân biến, nổi dậy, chiến tranh, hành động khủng bố, tấn công mạng, hoặc bất kỳ các cuộc đình công hay bế xưởng, hoặc do bất kỳ nguyên nhân nào khác, bao gồm do lỗi thiết bị, phần mềm hoặc mạng lưới truyền tải thông tin, vượt quá sự kiểm soát của ngân hàng.

URBPO 750 Điều 13: Sự kiện bất khả kháng là các hậu quả phát sinh do việc gián đoạn hoạt động của ngân hàng, bao gồm sự mất khả năng truy cập TMA, hoặc do lỗi thiết bị, phần mềm hoặc mạng lưới truyền tải thông tin, gây ra bởi thiên tai, bạo loạn, dân biến, nổi dậy, chiến tranh, hành động khủng bố, tấn công mạng, hoặc bất kỳ các cuộc đình công hay bế xưởng, hoặc do bất kỳ nguyên nhân nào khác, bao gồm do lỗi thiết bị, phần mềm hoặc mạng lưới truyền tải thông tin, vượt quá sự kiểm soát của ngân hàng.

COVID – 19 CÓ PHẢI LÀ SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG?

Điểm chung trong tất các quy định về sự kiện bất khả kháng trong các quy tắc ICC là các sự kiện xảy ra vượt quá sự kiểm soát của ngân hàng dẫn đến hoạt động của ngân hàng bị gián đoạn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy mặc dù một số quốc gia bị ảnh hưởng COVID – 19 tuyên bố phong tỏa cục bộ hoặc toàn quốc nhưng vẫn cho phép các doanh nghiệp phục vụ nhu cầu thiết yếu hoạt động, trong đó các ngân hàng vẫn mở cửa hoạt động mặc dù có cắt giảm giờ làm việc hoặc cắt giảm nhân viên.

Như vậy, căn cứ theo các quy định của ICC tại các quy tắc nêu trên, trong bối cảnh hiện nay COVID – 19 không phải là sự kiện bất khả kháng ít nhất đối với các ngân hàng vẫn đang còn mở cửa hoạt động mặc dù sự kiện phong tỏa nhằm hạn chế COVID -19 ít nhiều ảnh hưởng đến việc xuất trình chứng từ hay yêu cầu đòi tiền.

Còn nhớ sự kiện núi lửa phun trào xảy ra tại Iceland năm 2010, các ngân hàng vẫn mở cửa hoạt động nên sự kiện bất khả kháng hầu như không áp dụng đối với các ngân hàng trong trường hợp này.
Tuy nhiên, cho dù COVID – 19 có được xem là sự kiện bất khả kháng hay không, rõ ràng nó trong chừng mực nào đó đã ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại của các ngân hàng và gián tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu của khách hàng.

GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ VỚI TÌNH HUỐNG THỜI COVID – 19

Để thích ứng với tình huống bất thường hiện tại, ICC khuyến nghị tất cả các bên liên quan cần tăng cường đối thoại để tìm ra giải pháp thích hợp và thỏa thuận cách thức thực hiện thay vì mong đợi ICC sửa đổi các quy tắc.

XUẤT TRÌNH CHỨNG TỪ ĐIỆN TỬ, GỬI HÌNH ẢNH CHỨNG TỪ QUA EMAIL, SCAN, FAX

Một giải pháp khả dĩ dành cho các ngân hàng là thỏa thuận xuất trình chứng từ điện tử hoặc xuất trình chứng từ bằng cách gửi hình ảnh chứng từ qua email, scan hoặc fax.
Ngân hàng được chỉ định (NHĐCĐ) xuất trình bằng cách gửi hình ảnh chứng từ bằng giấy qua email, scan hoặc fax đến Ngân hàng phát hành (NHPH), kèm theo hình ảnh thư đòi tiền liệt kê các chứng từ, số lượng bản gốc và bản sao nhận được, đồng thời gửi thêm cho NHPH một điện SWIFT xác nhận hành động đã được thực hiện và hoàn tất các hình ảnh đã được scan, fax hoặc email. Điều này cho phép NHPH tự xác định chứng từ xuất trình có phù hợp hay không. Nếu phù hợp, NHPH có thể phát hành lệnh giao hàng và thư bảo lãnh nhận hàng (còn gọi là thư bảo đảm bồi thường) để hãng tàu giao hàng gửi cho người yêu cầu phát hành LC hoặc NHPH, và thực hiện thanh toán bộ chứng từ xuất trình phù hợp.

Tương tự, NHPH có thể xử lý các chứng từ bất hợp lệ nhanh chóng và hiệu quả bằng cách liên hệ với người yêu cầu phát hành LC chấp nhận các bất hợp lệ để thực hiện thanh toán, chiết khấu hoặc ủy quyền hoàn trả.

Các chứng từ xuất trình bởi người thụ hưởng hoặc người thay mặt người thụ hưởng vẫn ở giữ tại NHĐCĐ với trách nhiệm thuộc về NHPH cho đến khi NHPH có thể xác định một địa điểm mới để chuyển giao chứng từ hoặc cho đến khi dịch vụ chuyển phát nhanh hoạt động trở lại. Điều này thể hiện sự sửa đổi UCP 600 Điều 7 (c) và điều 8, đòi hỏi phải được sự đồng ý của tất cả các bên.

Cho dù có giải pháp khả dĩ được mô tả ở trên, nên nhớ rằng khi chứng từ được chuyển tiếp và không thể giao được do các dịch vụ chuyển giao chứng từ đóng cửa ở các khu vực hoặc các quốc gia, kết quả là nhà chuyên chở không bỏ qua yêu cầu phải xuất trình vận đơn gốc, có thể ngân hàng sẽ không thể phát hành lệnh giao hàng hoặc bảo lãnh nhận hàng do người yêu cầu phát hành LC không có đủ hạn mức tín dụng hoặc thiếu đảm bảo bằng tiền mặt.

Đối với những LC hiện hữu tuân thủ theo UCP 600, nếu các bên đồng ý thay đổi các chứng từ bằng giấy thành các chứng từ điện tử (electronic records), có thể thực hiện bằng cách sửa đổi LC tuân thủ UCP 600 thành LC tuân thủ eUCP Version 2.0. Các chứng từ scan được xem là “chứng từ điện tử” theo định nghĩa “electronic records” trong eUCP 2.0 nhưng phải đáp ứng các yêu cầu về xác thực được quy định tại eUCP Điều e6.

Tương tự, có thể thỏa thuận sử dụng các chứng từ điện tử đối với các giao dịch nhờ thu chứng từ, nhưng phải đáp ứng các yêu cầu về xác thực được quy định tại eURC Điều e7.

Chứng từ kỹ thuật số là chứng từ chỉ tồn tại dưới dạng số hóa, trong khi chứng từ điện tử cũng có thể bao gồm một bản sao của chứng từ gốc được lưu trữ dưới hình thức điện tử, ví dụ, một bản scan.

MỘT SỐ TÌNH HUỐNG LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC CHUYỂN GIAO CHỨNG TỪ

Một trong những vấn đề đáng quan tâm là việc chuyển giao chứng từ đến ngân hàng, hoặc từ ngân hàng đến ngân hàng, hoặc từ bên phát hành bảo lãnh đến bên phát hành bảo lãnh đối ứng, hoặc từ ngân hàng hay bên phát hành bảo lãnh đến người yêu cầu phát hành hoặc bên ra chỉ thị phát hành. Vấn đề tương tự cũng xảy ra giữa ngân hàng chuyển chứng từ và ngân hàng thu hộ hoặc ngân hàng xuất trình trong giao dịch nhờ thu chứng từ.

Một số điều quy định trong các quy tắc ICC:

UCP 600 Điều 35 – Ngân hàng không chịu trách nhiệm đối với những hậu quả phát sinh từ sự chậm trễ, thất lạc, thiệt hại hoặc các sai sót khác phát sinh trong quá trình truyền thư từ, điện tín, chuyển giao thư từ hoặc chứng từ nếu các điện tín, các thư từ hoặc chứng từ được chuyển hoặc gửi đi phù hợp với các yêu cầu được quy định trong thư tín dụng, hoặc khi ngân hàng có sáng kiến lựa chọn dịch vụ chuyển giao khi thư tín dụng không có chỉ thị cụ thể.

URDG 758 Điều 28 (a) – Người bảo lãnh không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh từ sự chậm trễ, thất lạc, cắt xén, hoặc các sai sót khác phát sinh trong quá trình chuyển bất kỳ chứng từ nào, nếu chứng từ đó được chuyển hoặc gửi phù hợp với các yêu cầu quy định trong bảo lãnh, hoặc nếu người bảo lãnh có thể đã có sáng kiến trong việc lựa chọn dịch vụ chuyển giao khi không có hướng dẫn cụ thể để thực hiện.

URC 522 Điều 14 (a) – Các ngân hàng không chịu trách nhiệm đối với những hậu quả phát sinh từ sự chậm trễ và/hoặc thất lạc trong quá trình chuyển điện tín, thư từ hoặc chứng từ, hoặc đối với sự chậm trễ, cắt xén hoặc các sai sót khác phát sinh trong quá trình chuyển điện tín hoặc các lỗi khác trong dịch thuật và/hoặc giải thích các thuật ngữ kỹ thuật.

Đối với LC và SBLC được phát hành tuân thủ theo UCP 600, có 4 mối quan hệ trong việc xuất trình, xử lý, kiểm tra, thanh toán và/hoặc từ chối chứng từ.

A. Mối quan hệ giữa người thụ hưởng và ngân hàng được chỉ định không xác nhận thư tín dụng, ngân hàng xác nhận hoặc ngân hàng phát hành

Tình huống này liên quan đến việc chuyển giao chứng từ bởi hoặc thay mặt cho người thụ hưởng đến NHĐCĐ, ngân hàng xác nhận (NHXN) hoặc NHPH, kiểm tra và xử lý chứng từ, thanh toán hoặc chiết khấu, hoặc thông báo bất hợp lệ.

(i) Cần lưu ý rằng việc chuyển giao chứng từ bởi hoặc thay mặt cho người thụ hưởng là ngoài phạm vi của UCP 600.

(ii) Trong khi NHĐCĐ, NHPH hay NHXN có thể đã chỉ định trong LC địa chỉ và cách thức chuyển giao chứng từ đến địa chỉ đó và có thể chỉ định đíc danh công ty chuyển phát, nếu biết rằng việc chuyển giao tới địa điểm đó không thể thực hiện được hoặc chỉ có thể thực hiện vào những ngày cụ thể hoặc giữa những giờ cụ thể, ngân hàng đó phải thông báo cho người thụ hưởng sớm nhất ngay khi có cơ hội thu xếp địa điểm khác.

(iii) Người thụ hưởng cần kiểm tra với NHĐCĐ, NHXN hoặc NHPH về tình trạng chuyển giao chứng từ trước khi thu xếp xuất trình và, khi thích hợp, nhận các chỉ thị chuyển giao thay thế hoặc một sửa đổi chỉ thị chuyển giao chứng từ trong LC. Đối với LC chấm dứt hiệu lực xuất trình tại quầy của NHPH, người thụ hưởng nên đề nghị sửa đổi nơi chấm dứt hiệu lực xuất trình chứng từ ở nước của mình (hoặc ít nhất loại bỏ quy định chấm dứt hiệu lực tại trụ sở hoặc nước của NHPH).

(iv) Đối với việc phát hành LC mới, người thụ hưởng nên yêu cầu thư tín dụng quy định chứng từ xuất trình thanh toán, chấp nhận, cam kết trả chậm hoặc chiết khấu tại nhiều hơn một ngân hàng được chỉ định đích danh, như vậy, cho phép người thụ hưởng có sự lựa chọn khi xuất trình chứng từ. Vì lý do quy chế, một số ngân hàng sẽ không xử lý LC quy định chứng từ xuất trình tại ngân hàng bất kỳ.

(v) Người thụ hưởng cần lưu ý rằng NHĐCĐ không có nghĩa vụ nhận và kiểm tra chứng từ trừ phi ngân hàng đó đồng ý hành động theo sự chỉ định hoặc xác nhận LC. Trong trường hợp này, người thụ hưởng buộc phải thu xếp xuất trình chứng từ trực tiếp đến NHPH. Khi NHĐCĐ đồng ý kiểm tra chứng từ, nó không có nghĩa vụ thanh toán hoặc chiết khấu (xem UCP 600 Điều 12 (c)). Tuy nhiên, trường hợp NHĐCĐ đồng ý hành động theo sự chỉ định thực hiện thanh toán hoặc chiết khấu, nó phải tuân thủ các yêu cầu của UCP 600 Điều 14 (b) và Điều 16 (d), nhưng sẽ không mất quyền từ chối chứng từ bất hợp lệ nếu không tuân thủ các quy định này. NHĐCĐ cũng phải hành động phù hợp với bất kỳ yêu cầu nào thuộc quy chế.

(iv) Khi chứng từ được xuất trình đến NHXN hoặc NHPH, những ngân hàng này có nghĩa vụ kiểm tra và thanh toán hoặc chiết khấu chứng từ xuất trình phù hợp, tuân thủ theo quy chế. Nội dung của UCP 600 Điều 14 (b) và Điều 16 (d) sẽ áp dụng đối với các ngân hàng này, sẽ mất quyền khiếu nại về chứng từ xuất trình không phù hợp nếu không tuân thủ theo UCP 600 Điều 16.

(vii) LC phát hành có thể sửa đổi quy định của UCP 600 Điều 14 (b) và Điều 16 (d) nhưng chỉ nên thực hiện khi khi thật sự cần thiết và trên cơ sở tham khảo ý kiến tư vấn chuyên môn.

(viii) Thanh toán hoặc chiết khấu, khi được thực hiện, cần thực hiện phù hợp với các quy định của LC và các yêu cầu của UCP 600 Điều 15.

(ix) Bất kỳ thông báo từ chối nào cũng cần được gửi cho người thụ hưởng phù hợp với các yêu cầu được quy định tại UCP 600 Điều 16.

B. Mối quan hệ giữa ngân hàng được chỉ định không xác nhận, không có trách nhiệm kiểm tra, thanh toán hoặc chiết khấu, và ngân hàng xác nhận/ngân hàng phát hành

Tình huống này liên quan đến việc chuyển giao chứng từ từ NHĐCĐ đến NHXN hoặc NHPH khi chứng từ xuất trình phù hợp, hoặc khi NHĐCĐ chỉ đóng vai trò trung gian giữa người thụ hưởng và NHXN hoặc NHPH, và yêu cầu chấp nhận chứng từ bất kể chứng từ có một số bất hợp lệ.

LƯU Ý CHUNG ÁP DỤNG CHO TỪNG TÌNH HUỐNG

Lưu ý rằng hướng dẫn dưới đây không giải quyết vấn đề trách nhiệm giữa NHĐCĐ, NHXN hoặc NHPH do sự chậm trễ trong việc chuyển giao, thất lạc chứng từ hoặc không thể chuyển giao chứng từ nay, phát sinh từ các tình huống bất thường phụ thuộc vào luật áp dụng.

Mỗi NHĐCĐ:

 có thể muốn cân nhắc (nếu thực tế, và nếu hiện tại chưa hoàn tất đối với tất cả các giao dịch) kiểm tra tất các các xuất trình để xác định sự phù hợp, do vậy, đủ điều kiện để được UCP 600 Điều 35 bảo vệ trong trường hợp công ty chuyển phát nhanh làm thất lạc chứng từ trên đường vận chuyển.

 ngay cả khi không được quy định trong LC, cũng nên cân nhắc gửi điện cho NHXN hoặc NHPH thông báo cho biết đã nhận được chứng từ phù hợp và thể hiện tóm tắt các chi tiết như số tiền, ngày đáo hạn, chi tiết giao hàng, và nếu chứng từ đã được gửi đi thì nêu tên công ty chuyển phát nhanh và số vận đơn hàng không/số biên nhận chuyển phát nhanh.

 cần giữ lại các bản sao chứng từ, và nếu có thỏa thuận giữa các ngân hàng, về việc gửi hình ảnh scan, fax hoặc email, hoặc thực hiện theo các giải pháp được tất cả các bên thỏa thuận.

 cần lưu ý khi việc hoàn trả theo LC phụ thuộc vào NHPH xác định chứng từ xuất trình phù hợp, yêu cầu phải dàn xếp xong cách chuyển giao chứng từ thay thế trước khi đồng ý thực hiện các bước tiếp theo LC.

(i) Ngân hàng được chỉ định giao chứng từ cho công ty chuyển phát nhanh, công ty chuyển phát nhanh không thể giao chứng từ đến bất kỳ nơi đâu ở quốc gia đến.

NHĐCĐ được UCP 600 Điều 35 bảo vệ bởi chứng từ đã được giao cho dịch vụ chuyển phát nhanh – NHĐCĐ không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc chuyển giao chứng từ.

Chứng từ vẫn ở công ty chuyển phát nhanh. NHĐCĐ, ngay khi nhận được thông báo của công ty chuyển phát nhanh, cần thông báo cho NHPH về việc công ty chuyển phát nhanh không thể chuyển chứng từ. Tuy nhiên, lộ trình chứng từ là phải theo yêu cầu của NHPH (tại trường 78 của LC). Do vậy, nó vẫn còn có trách nhiệm khi NHPH thông báo NHTB/NHXN khi biết rằng không thể thực hiện chuyển giao chứng từ và đưa ra giải pháp thay thế.

(ii) Ngân hàng được chỉ định giao chứng từ cho công ty chuyển phát nhanh, công ty chuyển phát nhanh có thể giao chứng từ tới quốc gia đến nhưng không thể giao tới địa chỉ chỉ định

NHĐCĐ được UCP 600 Điều 35 bảo vệ bởi chứng từ đã được giao cho dịch vụ chuyển phát nhanh – NHĐCĐ không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc chuyển giao chứng từ.

Chứng từ vẫn ở công ty chuyển phát nhanh. NHĐCĐ, ngay khi nhận được thông báo của công ty chuyển phát nhanh, cần thông báo cho NHPH về việc công ty chuyển phát nhanh không thể chuyển chứng từ. Tuy nhiên, lộ trình chứng từ là phải theo yêu cầu của NHPH (tại trường 78 của LC). Do vậy, nó vẫn còn có trách nhiệm khi NHPH thông báo NHTB/NHXN khi biết rằng không thể thực hiện chuyển giao chứng từ và đưa ra giải pháp thay thế.

(iii) Ngân hàng được chỉ định không thể giao chứng từ cho dịch vụ chuyển phát nhanh bởi họ không thể giao chứng từ và không nhận bưu kiện để giao

NHĐCĐ được UCP 600 Điều 35 bảo vệ bởi chứng từ lẽ ra đã được giao cho dịch vụ chuyển phát nhành, nhưng dịch vụ chuyển phát nhanh không thể nhận và giao chứng từ – NHĐCĐ không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc chuyển giao chứng từ.

Chứng từ vẫn ở tại NHĐCĐ. NHĐCĐ cần liên hệ NHPH để có chỉ thị mới về lộ trình gửi chứng từ.

(iv) LC yêu cầu chứng từ gửi đi bằng dịch vụ chuyển phát nhanh và chỉ định dịch vụ chuyển phát nhanh cụ thể, dịch vụ chuyển phát nhanh được liên hệ không thể nhận hoặc chuyển giao chứng từ.

NHĐCĐ được UCP 600 Điều 35 bảo vệ bởi chứng từ lẽ ra đã được giao cho dịch vụ chuyển phát được chỉ định, nhưng dịch vụ chuyển phát nhanh không thể nhận và giao chứng từ – NHĐCĐ không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc chuyển giao chứng từ.

Chứng từ vẫn ở tại NHĐCĐ. NHĐCĐ cần liên hệ ngân hàng phát hành để có chỉ thị mới về lộ trình gửi chứng từ.

(v) LC yêu cầu chứng từ gửi đi bằng dịch vụ chuyển phát nhanh và chỉ định dịch vụ chuyển phát nhanh cụ thể, dịch vụ chuyển phát nhanh được liên hệ có thể nhận nhưng không thể chuyển giao chứng từ.

NHĐCĐ được UCP 600 Điều 35 bảo vệ nếu chứng từ ĐƯỢC hoặc KHÔNG ĐƯỢC giao cho dịch vụ chuyển phát nhanh – NHĐCĐ không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc chuyển giao chứng từ.

Nếu chứng từ ĐƯỢC GIAO, NHĐCĐ, ngay khi nhận được thông báo của công ty chuyển phát nhanh, cần thông báo cho NHPH biết công ty chuyển phát nhanh không thể chuyển giao chứng từ. Chứng từ vẫn ở tại công ty chuyển phát nhanh.

Tuy nhiên, lộ trình của chứng từ là theo yêu cầu của NHPH (tại trường 78 của LC). Do vậy, nó vẫn còn có trách nhiệm khi NHPH thông báo cho NHTB/NHXN khi biết rằng không thể thực hiện chuyển giao chứng từ và đưa ra giải pháp thay thế.

Nếu chứng từ KHÔNGĐƯỢC giao do biết rằng không thể chuyển giao, chứng từ vẫn ở tại ngân hàng được chỉ định. NHĐCĐ cần liên hệ NHPH để có chỉ thị mới về lộ trình gửi chứng từ.

(vi) Chứng từ đã được dịch vụ chuyển phát nhanh nhận nhưng gửi trả lại ngân hàng được chỉ định do không thể chuyển giao chứng từ.

NHĐCĐ được UCP 600 Điều 35 bảo vệ bởi chứng từ đã được giao cho dịch vụ chuyển phát nhanh mặc dù sau đó được gửi trả lại – NHĐCĐ không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc chuyển giao chứng từ.

Chứng từ vẫn ở tại NHĐCĐ. NHĐCĐ cần liên hệ NHPH thông báo rằng vào ngày [ …] chứng từ đã được dịch vụ chuyển phát nhanh nhận và vào ngày [….] họ gửi trả lại ngân hàng được chỉ định bởi dịch vụ chuyển phát nhanh không thể chuyển giao chứng từ và đề nghị có chỉ thị mới về lộ trình gửi chứng từ.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC CÓ THỂ CÂN NHẮC ÁP DỤNG CHO CÁC TÌNH HUỐNG (i) – (vi)

1. Các giải pháp ứng phó đối với những tình huống khác nhau cũng áp dụng đối với trường hợp chứng từ được gửi đi bằng thư bảo đảm đường hàng không hoặc tương tự.

2. Khi chứng từ bị NHXN hoặc NHPH từ chối, việc lựa chọn gửi trả lại chứng từ cho NHĐCĐ chỉ nên thực hiện khi đã có yêu cầu cung cấp chỉ thị về phương thức gửi chứng từ và/hoặc khi nhận được chỉ thị từ NHĐCĐ. Sẽ hợp lý hơn khi NHPH biết rằng người yêu cầu phát hành LC sẽ không chấp nhận chứng từ bất hợp lệ và phải gửi trả lại.

3. Việc thanh toán hoặc chiết khấu, khi được NHĐCĐ thực hiện, phải phù hợp với quy định của LC liên quan và các yêu cầu của UCP 600 Điều 15 (c).

4. NHXN hoặc NHPH phải hoàn trả hoặc thu xếp hoàn trả, khi chứng từ xuất trình phù hợp với quy định của LC.

5. Thanh toán chậm trễ.
Khi NHĐCĐ nhận được chứng từ phù hợp và đồng ý hành động theo sự chỉ định, NHXN hoặc NHPH trước khi bị gián đoạn hoạt động xác định chứng từ phù hợp thì phải thực hiện thanh toán kịp thời phù hợp với quy định của LC. Khi việc thanh toán bị chậm trễ do NHXN hoặc NHPH đóng cửa ngừng hoạt động, việc NHXN hoặc NHPH có chịu trách nhiệm trả lãi chậm thanh toán hay không nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của UCP 600 và sẽ được các bên liên quan giải quyết phù hợp với luật pháp áp dụng.

C. Mối quan hệ giữa ngân hàng xác nhận và ngân hàng phát hành

Tình huống này liên quan đến việc chuyển giao chứng từ từ NHXN đến NHPH khi chứng từ phù hợp được xuất trình và yêu cầu chấp nhận chứng từ cho dù bất hợp lệ.

LƯU Ý CHUNG CÓ THỂ ÁP DỤNG CHO TỪNG TÌNH HUỐNG

Lưu ý rằng những nội dung sau không giải quyết các vấn đề về trách nhiệm giữa NHXN và NHPH do chậm trễ trong việc chuyển giao chứng từ, thất lạc chứng từ hoặc không thể chuyển giao chứng từ, phát sinh từ các tình huống bất thường, phụ thuộc vào luật áp dụng.

Mỗi NHXN:

 ngay cả khi không được quy định trong LC, cũng nên cân nhắc gửi điện cho NHPH thông báo cho biết đã nhận được chứng từ phù hợp và thể hiện tóm tắt các chi tiết như số tiền, ngày đáo hạn, chi tiết giao hàng, và nếu chứng từ đã được gửi đi thì nêu tên công ty chuyển phát nhanh và số vận đơn hàng không/số biên nhận chuyển phát nhanh.

 cần giữ lại các bản sao chứng từ, và nếu có thỏa thuận giữa các ngân hàng, về việc gửi hình ảnh scan, fax hoặc email, hoặc thực hiện theo các giải pháp được tất cả các bên thỏa thuận.

 cần lưu ý khi việc hoàn trả theo LC phụ thuộc vào NHPH xác định chứng từ xuất trình phù hợp, NHXN có thể liên hệ NHPH để xác đinh chứng từ có thể được chuyển giao hay không hoặc tìm giải pháp thay thế sao cho việc hoàn trả có thể được thực hiện kịp thời.

(i) Ngân hàng xác nhận giao chứng từ cho công ty chuyển phát nhanh, công ty chuyển phát nhanh không thể giao chứng từ đến bất kỳ nơi đâu ở quốc gia đến.

NHXN được UCP 600 Điều 35 bảo vệ bởi chứng từ đã được giao cho dịch vụ chuyển phát nhanh – NHXN không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc chuyển giao chứng từ.

Chứng từ vẫn ở công ty chuyển phát nhanh. NHXN, ngay khi nhận được thông báo của công ty chuyển phát nhanh, cần thông báo cho NHPH về việc công ty chuyển phát nhanh không thể chuyển chứng từ.

Tuy nhiên, lộ trình chứng từ là phải theo yêu cầu của ngân hàng phát hành (tại trường 78 của LC). Do vậy, nó vẫn còn có trách nhiệm khi NHPH thông báo NHTB/NHXN khi biết rằng không thể thực hiện chuyển giao chứng từ và đưa ra giải pháp thay thế.

(ii) Ngân hàng xác nhận giao chứng từ cho công ty chuyển phát nhanh, công ty chuyển phát nhanh có thể giao chứng từ tới quốc gia đến nhưng không thể giao tới địa chỉ chỉ định

NHXN được UCP 600 Điều 35 bảo vệ bởi chứng từ đã được giao cho dịch vụ chuyển phát nhanh – NHXN không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc chuyển giao chứng từ.

Chứng từ vẫn ở tại NHXN. NHXN, ngay khi nhận được thông báo của công ty chuyển phát nhanh, cần thông báo cho NHPH về việc công ty chuyển phát nhanh không thể chuyển chứng từ.

Tuy nhiên, lộ trình chứng từ là phải theo yêu cầu của NHPH (tại trường 78 của LC). Do vậy, nó vẫn còn có trách nhiệm khi NHPH thông báo NHTB/NHXN khi biết rằng không thể thực hiện chuyển giao chứng từ và đưa ra giải pháp thay thế.

(iii) Ngân hàng xác nhận không thể giao chứng từ cho dịch vụ chuyển phát nhanh bởi họ không thể giao chứng từ và không nhận bưu kiện để chuyển giao

NHXN được UCP 600 Điều 35 bảo vệ bởi chứng từ lẽ ra đã được giao cho dịch vụ chuyển phát nhanh, nhưng dịch vụ chuyển phát nhanh không thể nhận và giao chứng từ – NHXN không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc chuyển giao chứng từ.

Chứng từ vẫn ở tại NHXN. NHXN cần liên hệ NHPH để có chỉ thị mới về lộ trình gửi chứng từ.

(iv) LC yêu cầu chứng từ gửi đi bằng dịch vụ chuyển phát nhanh và chỉ định dịch vụ chuyển phát nhanh cụ thể, dịch vụ chuyển phát nhanh được liên hệ không thể nhận hoặc chuyển giao chứng từ.

NHXN được UCP 600 Điều 35 bảo vệ bởi chứng từ lẽ ra đã được giao cho dịch vụ chuyển phát được chỉ định, nhưng dịch vụ chuyển phát nhanh không thể nhận và giao chứng từ – NHXN không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc chuyển giao chứng từ.

Chứng từ vẫn ở tại NHXN. NHXN cần liên hệ NHPH để có chỉ thị mới về lộ trình gửi chứng từ.

(v) LC yêu cầu chứng từ gửi đi bằng dịch vụ chuyển phát nhanh và chỉ định dịch vụ chuyển phát nhanh cụ thể, dịch vụ chuyển phát nhanh được liên hệ có thể nhận nhưng không thể chuyển giao chứng từ.

NHXN được UCP 600 Điều 35 bảo vệ nếu chứng từ ĐƯỢC hoặc KHÔNG ĐƯỢC giao cho dịch vụ chuyển phát nhanh – NHXN không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc chuyển giao chứng từ.

Nếu chứng từ ĐƯỢC GIAO, NHXN ngay khi nhận được thông báo của công ty chuyển phát nhanh, cần thông báo cho NHPH biết công ty chuyển phát nhanh không thể chuyển giao chứng từ. Chứng từ vẫn ở tại công ty chuyển phát nhanh.

Tuy nhiên, lộ trình của chứng từ là theo yêu cầu của NHPH (tại trường 78 của LC). Do vậy, nó vẫn còn có trách nhiệm khi NHPH thông báo cho NHTB/NHXN khi biết rằng không thể thực hiện chuyển giao chứng từ và đưa ra giải pháp thay thế.

Nếu chứng từ KHÔNG ĐƯỢC giao do biết rằng không thể chuyển giao, chứng từ vẫn ở tại NHXN. NHXN cần liên hệ ngân hàng phát hành để có chỉ thị mới về lộ trình gửi chứng từ.

(vi) Chứng từ đã được dịch vụ chuyển phát nhanh nhận nhưng gửi trả lại ngân hàng xác nhận do không thể chuyển giao chứng từ.

NHXN được UCP 600 Điều 35 bảo vệ bởi chứng từ đã được giao cho dịch vụ chuyển phát nhanh mặc dù sau đó được gửi trả lại – NHXN không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc chuyển giao.
Chứng từ vẫn ở tại NHXN. NHXN cần liên hệ NHPH thông báo rằng vào ngày [ …] chứng từ đã được dịch vụ chuyển phát nhanh nhận và vào ngày [….] họ gửi trả lại NHXN bởi dịch vụ chuyển phát nhanh không thể chuyển giao chứng từ và đề nghị có chỉ thị mới về lộ trình gửi chứng từ.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC CÓ THỂ CÂN NHẮC ÁP DỤNG CHO CÁC TÌNH HUỐNG (i) – (vi)

1. Các giải pháp ứng phó đối với những tình huống khác nhau cũng áp dụng đối với trường hợp chứng từ được gửi đi bằng thư bảo đảm đường hàng không hoặc tương tự.

2. Khi chứng từ bị NHPH từ chối, việc lựa chọn gửi trả lại chứng từ cho NHXN chỉ nên thực hiện khi đã có yêu cầu cung cấp chỉ thị về phương thức gửi chứng từ và/hoặc khi nhận được chỉ thị từ NHXN. Sẽ hợp lý hơn khi NHPH biết rằng người yêu cầu phát hành LC sẽ không chấp nhận chứng từ bất hợp lệ và phải gửi trả lại.

3. Việc thanh toán hoặc chiết khấu, khi được NHXN thực hiện, phải phù hợp với quy định của LC liên quan và các yêu cầu của UCP 600 Điều 15 (c).

4. NHPH phải hoàn trả hoặc thu xếp hoàn trả, khi chứng từ xuất trình phù hợp với quy định của LC.

5. Thanh toán chậm trễ.
Khi NHXN hoặc NHPH nhận được chứng từ trước khi bị gián đoạn hoạt động và xác định chứng từ phù hợp thì phải thực hiện thanh toán kịp thời phù hợp với quy định của LC. Khi việc thanh toán bị chậm trễ do NHXN hoặc NHPH đóng cửa ngừng hoạt động, việc NHXN hoặc NHPH có chịu trách nhiệm trả lãi chậm thanh toán hay không nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của UCP 600 và sẽ được giải quyết giữa các bên liên quan hoặc theo luật pháp áp dụng.

D. Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành và người yêu cầu phát hành LC

Tình huống này liên quan đến việc chuyển giao chứng từ khi chứng từ phù hợp được xuất trình hoặc khi các bất hợp lệ đã được thông báo cho người yêu cầu phát hành LC để xin ý kiến chấp nhận bất hợp lệ.

(i) Lưu ý rằng việc NHPH chuyển giao chứng từ cho người yêu cầu phát hành LC là nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của UCP 600.

(ii) NHPH cần liên hệ với khách hàng (người yêu cầu phát hành LC) để xác định cách chuyển giao chứng từ tốt nhất.

(iii) Mối quan hệ giữa NHPH và khách hàng đôi khi hết sức quan trọng. Việc khách hàng đồng ý sửa đổi quy tắc quy định trong LC, biết địa điểm khác để chuyển giao chứng từ , và/hoặc các giải pháp khác tạo điều kiện thuận tiện cho việc giao hàng, và/hoặc đồng ý chấp nhận chứng từ scan, fax hoặc email (trong khi chờ đợi dịch vụ chuyển phát nhanh hoạt động trở lại) và/hoặc việc thanh toán là hết sức quan trọng bởi nó ảnh hưởng đến thỏa thuận bồi hoàn với ngân hàng.

(iv) Bất kỳ giải pháp thay thế nào được thỏa thuận bởi các bên cần được thể hiện trong thỏa thuận hoàn trả của khách hàng hoặc thể hiện bằng một phụ lục với thỏa thuận đó.

(v) Sự đồng ý nhanh chóng thay đổi chỉ thị của người yêu cầu phát hành LC chấp nhận chứng từ bất hợp lệ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển chứng từ từ người thụ hưởng đến người yêu cầu phát hành LC.

E. Các sản phẩm thương mại khác

NHỜ THU CHỨNG TỪ

(i) Ngân hàng thu hộ và ngân hàng xuất trình chỉ bắt đầu tham gia giao dịch kể từ lúc họ nhận được chỉ thị nhờ thu từ ngân hàng chuyển chứng từ. Người ủy thác thu và ngân hàng chuyển chứng từ cần cân nhắc lựa chọn ngân hàng thu hộ hoặc ngân hàng xuất trình trên cơ sở có quan hệ với nhà nhập khẩu để thuận tiện cho việc thanh toán hoặc chấp nhận và chuyển giao chứng từ.

Trước khi gửi chỉ thị nhờ thu, ngân hàng chuyển chứng từ cần liên hệ ngân hàng thu hộ đã chọn để xác nhận xem thử có thể chuyển giao chứng từ được không, hoặc bằng cách nào và gửi tới đâu.

Nếu không thể gửi chỉ thị nhờ thu đến ngân hàng thu hộ, Ngân hàng chuyển chứng từ cần liên hệ lại với người ủy thác thu để xin chỉ thị mới có thể bao gồm việc gửi hình ảnh chứng từ scan, fax hoặc email cho ngân hàng thu hộ hoặc ngân hàng xuất trình, ngân hàng chuyển chứng từ giữ các bản gốc và bản sao chứng từ trong khi chờ đợi nhận thông tin chi tiết về việc chuyển giao chứng từ đối với ngân hàng thu hộ hoặc ngân hàng xuất trình, hoặc chờ khi dịch vụ chuyển phát nhanh hoạt động trở lại. Người ủy thác thu chịu trách nhiệm về việc ngân hàng chuyển chứng từ giữ bản gốc và bản sao các chứng từ.

THƯ BẢO LÃNH THEO YÊU CẦU

(i) Người thụ hưởng chuyển giao yêu cầu đòi tiền đến bên bảo lãnh

Phần bình luận ở trên về mối quan hệ giữa người thụ hưởng và NHĐCĐ không xác nhận LC, NHXN hoặc NHPH cũng sẽ áp dụng cho trường hợp này. Người thụ hưởng nên lưu ý nội dung của URDG 758 Điều 14 (d).
Bên bảo lãnh cần kiểm tra yêu cầu đòi tiền phù hợp với các yêu cầu của URDG 758 Điều 20, và nếu phù hợp, thì thực hiện thanh toán. Trường hợp từ chối yêu cầu đòi tiền, bên bảo lãnh cần thực hiện phù hợp với URDG 758 Điều 24.

(ii) Người thụ hưởng chuyển giao yêu cầu đòi tiền đến bên bảo lãnh qua một bên thông báo

URDG 758 Điều 10 (c) quy định “Bên thông báo hoặc bên thông báo thứ hai thông báo thư bảo lãnh mà không có cam kết bổ sung nào đối với người thụ hưởng”. Vì thế, bên thông báo không có nghĩa vụ phải chuyển tiếp yêu cầu đòi tiền đến bên bảo lãnh. Nếu người thụ hưởng yêu cầu bên thông báo chuyển tiếp yêu cầu đòi tiền bằng giấy đến bên bảo lãnh, nhưng bên thông báo không thể thực hiện do dịch vụ chuyển phát nhanh không thể nhận để chuyển giao, hoặc chuyển giao yêu cầu đó cho bên bảo lãnh, bên thông báo có thể hỗ trợ người thụ hưởng bằng cách liên hệ trao đổi với bên bảo lãnh để tìm giải pháp thay thế, nhưng bên thông báo không có nghĩa vụ phải thực hiện điều đó.

(iii) Mối quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên bảo lãnh đối ứng

URDG 758 Điều 22 cho phép việc chuyển bản sao yêu cầu đòi tiền phù hợp cho bên bảo lãnh đối ứng bằng hình thức điện tử, ví dụ, bản scan, fax hoặc email. Bên bảo lãnh cũng phải bảo đảm rằng bên bảo lãnh đối ứng được thông báo các chi tiết của yêu cầu đòi tiền theo Điều 16.

(iv) Mối quan hệ giữa bên bảo lãnh đối ứng hoặc bên bảo lãnh và bên chỉ thị

URDG 758 Điều 22 cho phép việc chuyển bản sao yêu cầu đòi tiền phù hợp cho bên chỉ thị bằng hình thức điện tử, ví dụ, bản scan, fax hoặc email. Bên bảo lãnh đói ứng hoặc bên bảo lãnh cũng phải bảo đảm rằng bên chỉ thị được thông báo các chi tiết của yêu cầu đòi tiền theo Điều 16. Bất kỳ việc gia hạn hoặc thanh toán yêu cầu đòi tiền cần được xử lý với sự chậm trễ ít nhất, và luôn ở trong khuôn khổ được quy định trong URDG 758 Điều 23, bởi điều này có thể giúp giảm thiểu số yêu cầu đòi tiền có thể cần được thanh toán.

(v) Thanh toán chậm trễ

Khi bên bảo lãnh nhận được yêu cầu đòi tiền, và bất kỳ các chứng từ đi kèm, trước khi bị gián đoạn hoạt động và xác định chứng từ xuất trình phù hợp thì phải thực hiện thanh toán kịp thời phù hợp với quy định của thư bảo lãnh. Khi việc thanh toán bị chậm trễ do trụ sở của bên bảo lãnh đóng cửa ngừng hoạt động, việc bên bảo lãnh có chịu trách nhiệm trả lãi chậm thanh toán hay không nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của URDG 758 và sẽ được giải quyết giữa người thụ hưởng và bên bảo lãnh hoặc theo luật pháp áp dụng.

LƯU Ý

ICC nhấn mạnh rằng bất kỳ sự thay đổi nào đối với phương thức hoặc địa điểm chuyển giao chứng từ, hoặc bất kỳ giải pháp thay thế nào nhằm xử lý giao dịch tài trợ thương mại tuân thủ theo quy tắc ICC đều yêu cầu phải có sự đồng ý rõ ràng của các bên liên quan: NHPH và NHĐCĐ/NHXN hoặc bên bảo lãnh đối ứng và bên bảo lãnh; người yêu cầu phát hành hoặc bên chỉ thị và người thụ hưởng (tùy trường hợp); hoặc các bên tham gia giao dịch nhờ thu chứng từ: người ủy thác thu, ngân hàng chuyển chứng từ, ngân hàng thu hộ hoặc ngân hàng xuất trình; và người trả tiền.

Khi có bất kỳ giải pháp thay thế nào được thỏa thuận, các điều khoản của giải pháp đó phải được chứng minh bằng chứng từ một cách rõ ràng nhằm tránh những tranh chấp về sau.
—–

Load More Related Articles
Load More By Mr Old Man
Load More In Articles

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Check Also

INVOICE NOT CERTIFYING WHAT HAS NOT BEEN SHIPPED

QUESTION Dear Sir, LC allows both AIR and SEA shipment. Amount: USD 100,000 Shipment by AI…