Home Mr Old Man Articles CHIẾT KHẤU HAY THƯƠNG LƯỢNG THANH TOÁN?

CHIẾT KHẤU HAY THƯƠNG LƯỢNG THANH TOÁN?

28 min read
0
0
598

Ngày 28/06/2024 Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 21/2024/TT-NHNH (Thông tư 21) quy định về nghiệp vụ thư tín dụng và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến thư tín dụng, theo đó cụm từ  “thương lượng thanh toán” được sử dụng để nói đến  việc ngân hàng thương lượng mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi bộ chứng từ xuất trình theo thư tín dụng (có kèm hoặc không kèm hối phiếu) của bên thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.

Chưa bàn đến quy định nghiệp vụ thương lượng thanh toán tại Thông tư 21 có khác với quy định của Quy tắc  và Thực hành Thống nhất về Tín dụng Chứng từ (UCP), quy định mới này có thể buộc các ngân hàng thương mại phải thay đổi từ ngữ sử dụng trong các văn bản nghiệp vụ, thay đổi tên sản phẩm cũng như các mẫu biểu báo cáo,  giấy đề nghị liên quan đến nghiệp vụ chiết khấu chứng từ xuất trình theo thư tín dụng như “Giấy đề nghị chiết khấu có truy đòi” sẽ đổi thành “Giấy đề nghị thương lượng thanh toán chứng từ có truy đòi” , “Giấy đề nghị chiết khấu hối phiếu kèm theo bộ chứng từ xuất khẩu” sẽ đổi thành “Giấy đề nghị thương lượng thanh toán hối phiếu kèm theo bộ chứng từ xuất khẩu” … để thống nhất với tên gọi tại Thông tư 21.

Ngoài ra, các sách giáo khoa về thanh toán quốc tế sắp tới đây cũng phải thay đổi và cả những người thực hành thanh toán quốc tế cũng làm quen với thuật ngữ mới “thương lượng thanh toán”…

Nhân sự thay đổi này, người viết lại lạm bàn về việc nên dùng từ “chiết khấu” hay sử dụng cụm từ “thương lượng thanh toán” khi  ngân hàng được chỉ định mua lại hối phiếu (ký phát đòi tiền một ngân hàng khác) và/hoặc chứng từ bằng cách ứng trước hoặc trả trước tiền hàng cho người thụ hưởng vào ngày hoặc trước ngày ngân hàng được chỉ định nhận được tiền hoàn trả từ ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận thư tín dụng.

Nguồn gốc thuật ngữ  “negotiation”

(Theo quan điểm của người viết, “negotiation” nên được hiểu là “chiết khấu”, do vậy, trong bài viết này từ “chiết khấu” được sử dụng khi thích hợp)

Thuật ngữ “negotiation” xuất hiện trong UCP từ rất sớm và những định nghĩa về thuật ngữ  này từng được cho là khó hiểu và phải thay đổi sau nhiều lần sửa đổi UCP.

Nếu như UCP 82 (Ấn bản đầu tiên ICC1933) Điều 38  quy định thư tín dụng chỉ có một hình thức thanh toán là thanh toán ngay (available by payment) khi chứng từ phù hợp xuất trình trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng thì các phiên bản sửa đổi UCP sau này đã mở rộng hình thức thanh toán, theo đó thư tín dụng có thể thanh toán bằng các hình thức khác như chiết khấu (available by negotiation), chấp nhận (available by acceptance) và trả chậm (available by deferred payment). Cụ thể:

UCP 151 (Bản sửa đổi ICC 1951), Điều 10 quy định thư tín dụng có thể thanh toán bằng hình thức chấp nhận và chiết khấu.

UCP 222 (Bản sửa đổi ICC 1962), Điều 35 quy định thư tín dụng có thể thanh toán bằng cách hình thức thanh toán ngay, chấp nhận  và chiết khấu  tại một ngân hàng được ủy quyền.

UCP 290 (Bản sửa đổi ICC 1974), Điều khoản chung & Định nghĩa (e) đưa ra khái niệm thư tín dụng có thể được chiết khấu tự do tại bất kỳ ngân hàng nào (freely negotiable by any bank)

UCP 400 (Bản sửa đổi ICC 1983) nêu rõ thư tín dụng thanh toán bằng hình thức chiết khấu tại ngân hàng bất kỳ thì ngân hàng bất kỳ là ngân hàng được chỉ định (nominated bank).

UCP 500 (Bản sửa đổi ICC 1993), Điều 10 đưa ra định nghĩa thuật ngữ “negotiation” như sau: “Chiết khấu có nghĩa là sự định giá và trả tiền hối phiếu và/hoặc chứng từ bởi một ngân hàng được uỷ quyền thực hiện” (Negotiations means the giving of the value for Draft(s) and/or document(s) by the bank authorized to negotiate).

Định nghĩa thuật ngữ “negotiation” tại Điều 10 UCP 500, theo các chuyên gia, là không rõ ràng khiến những người thực hành thư tín dụng thời đó hiểu theo cách riêng của mình, thậm chí sử dụng nó một cách méo mó đến mức khi dự thảo sửa đổi UCP, nhiều chuyên gia còn đề nghị loại bỏ thuật ngữ “negotiation” ra khỏi UCP 600. Tuy nhiên, cuối cùng nó được giữa lại với một định nghĩa rõ ràng hơn.

UCP 600 (Bản sửa đổi ICC 2007) Điều 2 thay đổi định nghĩa thuật ngữ “negotiation” của UCP 500 như sau: “Chiết khấu có nghĩa là việc ngân hàng được chỉ định mua các hối phiếu (ký phát đòi tiền một ngân hàng khác, không phải ngân hàng được chỉ định) và/hoặc các chứng từ, bằng cách ứng trước hoặc đồng ý ứng trước tiền cho người thụ hưởng vào hoặc trước ngày làm việc của ngân hàng mà khoản hoàn trả phải được thực hiện cho ngân hàng được chỉ định”. (Negotiation means the purchase by the nominated bank of drafts (drawn on a bank other than the nominated bank) and/or documents, by either advancing or agreeing to advance funds to the beneficiary on or before the banking day on which reimbursement is due to the nominated bank).

So với định nghĩa tại Điều 10 (b)(ii) UCP 500, định nghĩa mới tại Điều 2 UCP 600 rõ ràng và dễ hiểu hơn rất nhiều. Cụm từ “the giving of the value” tại Điều 10 (b)(ii) UCP 500 nổi tiếng vì sự khó hiểu nay được thay thế bằng từ “purchase” (mua) rất đơn giản, đó là việc ngân hàng được chỉ định (NHĐCĐ) mua các hối phiếu và/hoặc các chứng từ bằng cách trả tiền trước hoặc đồng ý trả tiền trước cho người hưởng lợi vào ngày hoặc trước ngày ngân hàng chiết khấu nhận được tiền hoàn trả từ ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận (nếu có).

Chiết khấu hay thương lượng thanh toán?

Cả “chiết khấu” và “thượng lượng” đều được chuyển nghĩa từ thuật ngữ “negotiation” trong Quy tắc thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP). “Chiết khấu” được dịch dựa trên bản chất của nghiệp vụ, tức là mua hối phiếu/chứng từ với giá thấp hơn số tiền ghi trên hối phiếu/chứng từ hay mua với giá chiết khấu (purchase at a discount), trong khi “thương lượng” được chuyển ngữ  sát theo nghĩa thông thường của từ “negotiation” là “thương lượng”.

Có một vài bản dịch UCP dịch thuật ngữ “negotiation” là “thương lượng” hoặc “thương lượng thanh toán” trong khi đa số các bản dịch UCP, bao gồm bản dịch chất lượng của Đại học Ngoại thương, đều dịch là “chiết khấu”.

Khoản 14 Điều 4 Luật các công cụ chuyển nhượng 2005 sử dụng từ “chiết khấu” (chứ không dùng từ “thương lượng thanh toán”) để  giải thích việc các tổ chức tín dụng mua công cụ chuyển nhượng (bao gồm hối phiếu đòi nợ) từ người thụ hưởng trước khi đến hạn, trong khi Thông tư 21 lại sử dụng cụm từ  “thương lượng thanh toán” với giải thích: “Thương lượng thanh toán là việc ngân hàng thương lượng mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi bộ chứng từ xuất trình theo thư tín dụng (có kèm hoặc không kèm hối phiếu) của bên thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán”.

Có một sự thật rằng hầu hết người thực hành thanh toán quốc tế đều có thể hiểu khi nghe cụm từ “chiết khấu hối phiếu/chứng từ xuất trình theo thư tín dụng” mà không cần phải giải thích nghiệp vụ này là gì nhưng không chắc nhiều người trong số họ sẽ hiểu khi nghe cụm từ “thương lượng thanh toán hối phiếu/chứng từ”  nếu như không được giải thích cặn kẽ.

Như đã chia sẻ ở trên, quan điểm của người viết là Thông tư 21 nên sử dụng từ “chiết khấu” thay vì “thương lượng thanh toán” để phù hợp với cách hiểu và sử dụng xưa nay của ngân hàng cũng như cộng đồng những người thực hành thanh toán quốc tế ở Việt Nam cũng như tránh gây ra thay đổi từ ngữ sử dụng trong các văn bản nghiệp vụ, thay đổi tên sản phẩm cũng như các mẫu biểu báo cáo,  giấy đề nghị liên quan đến nghiệp vụ chiết khấu chứng từ xuất trình theo thư tín dụng….

Nguyễn Hữu Đức

Tài liệu tham khảo:

– Quốc hội (2005). Luật các công cụ chuyển nhượng

– Ngân hàng Nhà nước (2024). Thông tư số 21/2024/TT-NHNN: Quy định về nghiệp vụ thư tín dụng và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến thư tín dụng

– Nguyễn Hữu Đức (2007). Bàn về vấn đề chiết khấu trong giao dịch thư tín dụng. Tạp chí Ngân hàng số 10 tháng 5/2007

– Nguyễn Hữu Đức (2006). Bàn về thuật ngữ “negotiation” trong giao dịch thư tín dụng. Thị trường Tài chính -Tiền tệ số 14 tháng 7/2006

– Nguyễn Hữu Đức (2006). UCP 600 có gì mới ? Tạp chí Ngân hàng số 14 tháng 7/2006

– Nguyễn Hữu Đức (2006). UCP 600 trước giờ G ? Tạp chí Ngân hàng số 22 tháng 10/2006

—–

Bạn đọc quan tâm có thể đọc tại các đường link sau:

BÀN VỀ THUẬT NGỮ “NEGOTIATION” TRONG GIAO DỊCH THƯ TÍN DỤNG – Mr. Old Man (mroldman.net)

BÀN VỀ VẤN ĐỀ CHIẾT KHẤU TRONG GIAO DỊCH THƯ TÍN DỤNG – Mr. Old Man (mroldman.net)

UCP 600 CÓ GÌ MỚI? – Mr. Old Man (mroldman.net)

UCP 600 TRƯỚC GIỜ G * – Mr. Old Man (mroldman.net)

– Trong bài viết tiếp theo, người viết sẽ bàn về sự giống nhau và khác nhau giữa giải thích cụm từ “thương lượng thanh toán” trong Thông tư 21 và định nghĩa thuật ngữ “negotiation” trong UCP 600.

—-

Mr. Old Man, 10/2024

Load More Related Articles
Load More By Mr Old Man
Load More In Articles

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Check Also

POTENTIAL FRAUD IN SCRAP METAL TRADE: A RISKY DEAL?

QUESTION Dear Mr. Old Man, My name is Th., and I am currently living and working in Ho Chi…