Uncategorized THE ANATOMY OF SHIPMENT IN L/C TRANSACTIONS By Mr Old Man Posted on March 16, 2010 39 min read 0 0 2,417 Share on Facebook Share on Twitter Share on Google+ Share on Reddit Share on Pinterest Share on Linkedin Share on Tumblr The article "The Anatomy of "Shipment" in L/C Transactions", which was published in DCInsight, was written by a famous L/C specialist, Kim Christensen. With the permission of Kim and DCInsight, Mr. Old Man translated the article into Vietnamese and had it published in Banking Review. BÀN VỀ VẤN ĐỀ SHIPMENT TRONG CÁC GIAO DỊCH THƯ TÍN DUNG Kim Christensen Kim Christensen là Chuyên gia Sản phẩm và Tài trợ Thương mại của Bank of Nordea và là thành viên của Uỷ ban Ngân hàng ICC. Ngoài việc là Tổng biên tập của LC VIEWS và là cộng tác biên tập của các tạp chí LC Monitor, DC World, DC Insight … Kim Christensen đã có nhiều bài viết về UCP 600 thu hút sự quan tâm của cộng đồng những người thực hành thư tín dụng chứng từ. Được sự đồng ý của Kim Christensen và các tạp chí nêu trên, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc quan tâm bài viết của Kim Christensen đã đăng trên DCInsight Vol. 14 No.1 January – March 2008. N.H.Đ Trong vài tháng qua, có môt vấn đề được xới đi xới lại nhiều lần, cả trong những tình huống thực tế lẫn trong các cuộc tranh luận trong cộng đồng thư tín dụng (LC), đó là vấn đề của thuật ngữ “shipment” (giao hàng/ xếp hàng lên tàu) khi được sử dụng trong các giao dịch thư tín dụng.Mục đích của bài này là nhằm phân tích khái niệm “giao hàng”. Nguồn tư liệu của người viết dựa trên UCP 600 và ISBP (2007), mặc dù người viết nghĩ rằng trong thời kỳ quá độ từ UCP 500 đến UCP 600 tập quán đã ít nhiều thay đổi. Mục đích của giao hàng “Giao hàng” là một khái niệm quan trọng trong các giao dịch thư tín dụng. Nó được sử dụng trong những tình huống sau:– Thư tín dụng sử dụng cụm từ “ngày giao hàng muộn nhất” (latest date of shipment). Trong trường hợp này, “ngày giao hàng” (date of shipment) được sử dụng để xác định yêu cầu này có phù hợp hay không.– Thư tín dụng cũng sử dụng cụm từ “thời hạn xuất trình” (period for presentation). Việc xuất trình chứng từ theo thư tín dụng bao gồm một chứng từ vận tải gốc phải được thực hiện không được muộn hơn thời hạn cố định (21 ngày theo lịch) sau ngày giao hàng nhưng không được muộn hơn ngày chấm dứt hiệu lực xuất trình của thư tín dụng (1).– Thư tín dụng có thể được thanh toán ngay hoặc thanh toán vào một ngày trong tương lai. Ngày trong tương lai này được tính trên cơ sở của việc giao hàng, ví dụ, “Thư tín dụng này được thanh toán bằng cách trả chậm 60 ngày sau ngày giao hàng.”– Khi thư tín dụng yêu cầu chứng từ bảo hiểm, ngân hàng phải xác định rằng “Ngày của chứng từ bảo hiểm không muộn hơn ngày giao hàng, trừ phi chứng từ bảo hiểm thể hiện rằng bảo hiểm có hiệu lực kể từ ngày mà ngày đó không muộn hơn ngày giao hàng (2). Rõ ràng việc nhận biết ngày giao hàng là rất quan trong. Đó phải là một ngày duy nhất, được thiết lập bởi các tiêu chí khách quan được xác định bởi chứng từ được xuất trình. Quy tắc và tập quán Trong quy tắc và tập quán xoay quanh thư tín dụng, có một số quy định liên quan đến việc giao hàng. Đầu tiên, giao hàng được định nghĩa trong các điều của UCP 600 quy định về chứng từ vận tải (3). Điển hình là ví dụ sau (4): Ngày phát hành chứng từ vận tải sẽ được xem là ngày gửi hàng (date of dispatch), ngày nhận hàng để chở (taking in charge) hoặc ngày xếp hàng lên tàu (shipped on board), và là ngày giao hàng (date of shipment). Tuy nhiên, nếu chứng từ vận tải thể hiện, bằng cách đóng dấu hoặc ghi chú ngày gửi hàng, ngày nhận hàng để chở hoặc ngày xếp hàng lên tàu thì ngày này sẽ được xem là ngày giao hàng. Như vậy, ngày giao hàng theo chứng từ vận tải đa phương thức được định nghĩa hoặc là: – ngày chứng từ được phát hành; hoặc– ngày đóng dấu hoặc ghi chú (nếu có) Từng điều trong số bảy điều quy định về chứng từ vận tải đều có định nghĩa như vậy, tuỳ thuộc vào bản chất của chứng từ, chẳng hạn ví dụ trên nói về ngày gửi hàng, ngày nhận hàng để chở hoặc ngày xếp hàng lên tàu, trong khi đối với Điều 20 , giao hàng theo “vận đơn đường biển” nghĩa là “được xếp lên một con tàu đích danh” (shipped on board a named vessel). Ngoài ra, có một số quy tắc và tập quán sử dụng thuật ngữ giao hàng, hoặc đúng hơn là định nghĩa khi nào thì có thể hoặc không thể sử dụng thuật ngữ giao hàng. Ví dụ, Điều 14 (c) UCP 600 quy định như sau: “Sự xuất trình bao gồm một hoặc nhiều chứng từ vận tải gốc theo các điều 19, 20, 21, 22, 23, 24 và 25 phải được thực hiện bởi hoặc hoặc thay mặt người hưởng lợi không được muộn hơn 21 ngày theo lịch sau ngày giao hàng đã được mô tả trong quy tắc này, nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng không được muộn hơn ngày chấm dứt hiệu lực (xuất trình chứng từ ) của thư tín dụng”. Đây là quy tắc về cái gọi là “thời hạn xuất trình” (period for presentation). Quy định này thu hẹp phạm vi cho rằng thời hạn này chỉ áp dụng khi sự xuất trình bao gồm một hay nhiều “chứng từ vận tải gốc được mô tả trong quy tắc”. Do vậy, quy định này sẽ loại trừ các trường hợp sau: – Khi thư tín dụng yêu cầu một bản sao vận đơn đường biển (copy of bill of lading) bởi đây không phải là “một bản gốc”. Nguyên tắc này cũng được đề cập trong ISBP đoạn 20: “Các bản sao chứng từ vận tải không phải là chứng từ vận tải nhằm mục đích của UCP 600 các điều từ 19-25 và Điều 14 (c).– Khi thư tín dụng yêu cầu “Chứng nhận Nhận hàng của Người giao nhận” (Forwarder’s Certificate of Receipt – FCR) bởi đây không phải là là một trong những chứng từ được mô tả trong UCP 600 các điều từ 19-25. Nguyên tắc này cũng được thể hiện trong ISBP đoạn 19: “ … Lệnh giao hàng (Delivery Order), Chứng nhận Nhận hàng của Người giao nhận (Forwarder’s Certificate of Receipt), Chứng nhận Giao hàng của Người giao nhận (Forwarder’s Certìficate of Shipment), Chứng nhận Vận tải của Người giao nhận (Forwarder’s Certìificate of Transport), Biên nhận Hàng hoá của Người giao nhận (Forwarder’s Cargo Receipt), Biên nhận của Thuyền phó (Mate’s Receipt) không thể hiện là hợp đồng chuyên chở và không phải là chứng từ vận tải như được định nghĩa trong UCP 600 các điều từ 19-25. Như vậy, Điều 14 (c) UCP 600 cũng không áp dụng đối với các chứng từ này…” Bản chất trừu tượng của giao hàng Một định nghĩa về giao hàng cho rằng đó là “tài sản mà người gửi hàng giao cho nhà chuyên chở để chở” (5). Nếu ai đó được hỏi chung chung rằng yếu tố gì cấu thành việc giao hàng có thể anh ta sẽ trả lời rằng giao hàng xảy ra khi hàng hoá được giao cho nhà chuyên chở hoặc thực tế được xếp lên tàu. Trong trường hợp này, người đó có thể sẽ liên tưởng giao hàng với một sự kiện thực tế có quan hệ trực tiếp với hàng hoá đó. Trong các giao dịch thư tín dụng, đây có thể chỉ là một trường hợp trong một số tình huống, nhưng chắc chắn không phải là tất cả. Người viết xin đặt tên cho đoạn này là “bản chất trừu tượng của giao hàng”. Lý do là: 1. Mặc dù giao hàng được định nghĩa trong các giao dịch thư tín dụng nhưng không có một định nghĩa riêng; có đến bảy định nghĩa tuỳ theo thư tín dụng yêu cầu loại chứng từ vận tải nào. Giao hàng có thể có nghĩa là “đã được nhận để chở” (accepted for carriage) và dựa vào việc phát hành vận đơn đường không (6), hoặc nó có thể có nghĩa là “được xếp lên một con tàu đích danh” (shipped on board a named vessel) và dựa trên câu chữ in sẵn trên vận đơn theo hợp đồng thuê tàu (7).2. Định nghĩa giao hàng tìm thấy trong “chứng từ vận tải gốc” liên quan có thể dựa vào một sự kiện thực tế liên quan đến hàng hoá (ví dụ, khi chúng “được xếp lên tàu”), nhưng cũng có thể dựa vào ngày phát hành chứng từ vận tải mà chỉ thể hiện khi chứng từ đã được phát hành. Đối với trường hợp sau, có thể nói rằng ngày này có thể không quan hệ gì đến bất kỳ hoạt động cụ thể nào liên quan đến hàng hoá đó. Theo UCP 500, có thể thấy một số trường hợp trong đó vận đơn đường không nêu “ngày bay thực tế” (actual flight date), nhưng ngày giao hàng lại được xem là ngày phát hành vận đơn đường không (8). Dĩ nhiên, điều này không lô-gic. Nhưng thật may, đây không phải trường hợp theo UCP 600 (9). Tuy nhiên, đây là ví dụ rõ ràng cho thấy bản chất trừu tượng của giao hàng. Vấn đề của giao hàng Giao hàng thường được bàn thảo như là một khái niệm hữu hình dựa trên sự hiểu biết chung khi, thực tế, đó là ngày mà những hoạt động cụ thể được thực hiện liên quan đến hàng hoá. Do vậy, có thể thấy thư tín dụng thường yêu cầu hoặc là các bản sao chứng từ vận tải (ví dụ, bản sao vận đơn đường biển) hoặc là các chứng từ không phải là một phần của chứng từ vận tải được mô tả trong UCP 600 (ví dụ, FCR hoặc FCT). Những thư tín dụng này cũng có các yêu cầu liên quan đến giao hàng, chẳng hạn: – Ngày giao hàng muộn nhất: 1/7/2007; hoặc– Thời hạn xuất trình chứng từ : 15 ngày. Trong cả hai ví dụ trên, ta cần biết giao hàng có những yêu cầu gì để xác định sự phù hợp với những yêu cầu đó. Về mặt này, các ngân hàng sẽ xác định giao hàng dựa trên “bản sao vận đơn đường biển”, “FCR” hoặc “hoá đơn”. Mặc dù điều này có vẻ lô-gic nhưng lại ít có ý nghĩa trong các giao dịch thư tín dụng. Lý do, như đã nêu, chính là do bản chất trừu tượng của giao hàng khi được sử dụng trong các giao dịch thư tín dụng. Do vậy, để xác định yếu tố gì cấu thành sự giao hàng, ta cần có: 1. Định nghĩa các yếu tố cấu thành sự giao hàng trong từng trường hợp cụ thể. Để có định nghĩa này, cần tham khảo một trong các điều của UCP 600 từ 19-25., và2. Thư tín dụng yêu cầu một trong những chứng từ. Thế thì làm thế nào để xác định được sự giao hàng trên chứng từ FCR? Phải chăng đó là ngày phát hành ? Phải chăng đó là ngày mà hàng hoá “được nhận” (xét cho cùng, nó được gọi là Chứng nhận Nhận hàng của Người giao nhận). Theo lô-gic của các điều quy định của UCP 600 và các đoạn nêu trên của ISBP, đơn giản là không thể xác định được giao hàng khi thư tín dụng không yêu cầu một hay nhiều chứng từ vận tải. Do vậy, khi thư tín dụng yêu cầu một chứng từ phi vận tải (non-transport document) và có yêu cầu về giao hàng (ví dụ, ngày giao hàng muộn nhất), người viết cho rằng những yêu cầu như thế là mơ hồ và không cần phải quan tâm. Những yêu cầu đó, trong bất kỳ trường hợp nào, sẽ là lý do có giá trị để từ chối chứng từ. Giải pháp Từ những phân tích nêu trên, người viết xin có mấy đề xuất như sau: – Khi nhận/thông báo thư tín dụng có yêu cầu một chứng từ phi vận tải (ví dụ, bản sao vận đơn đường biển hoặc FCR ) và quy định các yêu cầu liên quan đến giao hàng (ví du, ngày giao hàng chậm nhất hoặc thời hạn xuất trình), cần liên hệ ngân hàng phát hành để làm rõ cách thức xác định việc giao hàng đựa trên các chứng từ được yêu cầu trong một thư tín dụng cụ thể. – Khi phát hành thư tín dụng yêu cầu một “chứng từ phi vận tải” (ví dụ, bản sao vận đơn đường biển hoặc FCR) và quy định các yêu cầu liên quan đến giao hàng, thư tín dụng cần mô tả cách thức yêu cầu này được xác định từ các chứng từ, ví dụ, “Chứng từ phải được xuất trình không muộn hơn 15 ngày theo lịch sau ngày phát hành FCR, nhưng không muộn hơn ngày chấm dứt hiệu lực xuất trình của thư tín dụng. Kết luận của người viết đã rõ. Thư tín dụng cần phải rõ ràng và chính xác. Nêu không, điều này sẽ gây ra nhiều vấn đề rắc rối. Điều này không có lợi lại cho bất kỳ ai, ít nhất là không có lợi cho người mua và người bán, những người sử dụng công cụ mua bán quan trọng này. Ngưởi dịch: Nguyễn Hữu Đức (1). UCP 600 sub-article 14(c). (2). UCP 600 sub-article 28(e). (3). UCP 600 articles 19-25. (4). From UCP 600 sub-article 19(a)(ii) "Transport Document Covering at Least Two Different Modes of Transport". (5). http://www.aarnold.net/terminology.htm. (6). UCP 600 sub-articles 23(a)(ii) and (iii). (7). UCP 600 sub article 22(a)(i). (8). UCP 500 sub-article 27(a)(iii). (9). UCP 600 sub-article 23(a)(iii). …
IS THE NOMINATED BANK REQUIRED TO VERIFY WHETHER THE BENEFICIARY HAS AUTHORIZED THE PRESENTING BANK TO PRESENT THE DOCUMENTS?
CAN THE ISUING BANK CITE “LATE PRESENTATION” AS A DISCREPANCY SOLELY BASED ON THE DATE OF THE COVER LETTER?
IS THE NOMINATED BANK REQUIRED TO VERIFY WHETHER THE BENEFICIARY HAS AUTHORIZED THE PRESENTING BANK TO PRESENT THE DOCUMENTS?
CAN THE ISUING BANK CITE “LATE PRESENTATION” AS A DISCREPANCY SOLELY BASED ON THE DATE OF THE COVER LETTER?